Tạo đột phá cho giáo dục đại học Việt Nam
Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị được xem là cột mốc chiến lược, tạo đột phá về tư duy và thể chế cho giáo dục đại học, khi nhấn mạnh ưu tiên đầu tư cho lĩnh vực này.
![]()  | 
| Sinh viên Trường Đại học Ngoại thương. Ảnh: NTCC | 
Nghị quyết yêu cầu ngân sách Nhà nước dành cho giáo dục và đào tạo tối thiểu 20% tổng chi, trong đó chi đầu tư đạt ít nhất 5% và chi cho giáo dục đại học tối thiểu 3%.
“Huyết mạch” của giáo dục đại học
Theo Báo cáo của Bộ GD&ĐT, chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục đại học năm 2013 là hơn 19.271 tỷ đồng (tương đương 0,43% GDP và 9,3% tổng chi ngân sách cho giáo dục, đào tạo). Năm 2022 giảm xuống còn 10.429 tỷ đồng (0,11% GDP và 3,4% tổng chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục, đào tạo).
Trong khi tỷ lệ chi so với GDP của Trung Quốc là 1,12%, bình quân OECD là 1,0%, Singapore là 0,79%, Thái Lan là 0,6%. Bình quân tỷ lệ chi cho giáo dục đại học trên ngân sách chi cho giáo dục, đào tạo của nhóm quốc gia có thu nhập trung bình là 18%, thu nhập cao là 23%. Ngân sách Nhà nước chi cho giáo dục đại học đạt mức rất thấp so với các nước trong khu vực và thế giới, trong khi việc huy động các nguồn lực từ xã hội còn hạn chế.
Nhấn mạnh, vấn đề tài chính là “huyết mạch” quyết định “sức khỏe” của hệ thống, GS.TS Nguyễn Quý Thanh - Ủy viên Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực, nêu thực tế: Hiện, ngân sách Nhà nước cho giáo dục đại học khoảng 10 nghìn tỷ đồng, giảm mạnh so với mức 17 - 18 nghìn tỷ đồng những năm trước (bình quân mỗi sinh viên được đầu tư 13 - 14 triệu đồng/năm, con số thấp hơn hầu hết các nước trong khu vực), trong khi số sinh viên tăng lên gần 2 triệu.
Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục, đào tạo (Nghị quyết 71) khẳng định, không tiếp tục cắt giảm mà phải tăng ngân sách. GS.TS Nguyễn Quý Thanh đánh giá, điểm mới quan trọng là thành lập quỹ học bổng quốc gia. Đây cũng là bước tiến tư duy. Quỹ này sẽ gom toàn bộ nguồn học bổng, hỗ trợ sinh viên vào một cơ chế độc lập, minh bạch, tách hẳn khỏi học phí.
“Học bổng phải có quỹ riêng, tách hẳn khỏi học phí. Con em đóng tiền là để học, không phải để trích ra làm học bổng cho người khác”, GS.TS Nguyễn Quý Thanh nhấn mạnh và cho rằng, điều này chấm dứt tình trạng lâu nay khi các trường buộc phải trích 8% học phí của số đông để chi cho một số ít sinh viên nhận học bổng – một bất cập mà ông đã nhiều lần chỉ ra.

Hoạt động nghiên cứu khoa học của Đại học Quốc gia Hà Nội. Ảnh: VNU
Gỡ “nút thắt”
Nghị quyết 71 thể hiện quyết tâm mạnh mẽ của Đảng trong việc “gỡ nút thắt” cho giáo dục bằng những giải pháp cụ thể, định lượng rõ ràng và tầm nhìn chiến lược. PGS.TS Trần Thành Nam - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Giáo dục (Đại học Quốc gia Hà Nội) nhấn mạnh, trước hết, bài toán nguồn lực được giải quyết khi ngân sách dành cho giáo dục tối thiểu 20% tổng chi, trong đó ít nhất 5% cho đầu tư, 3% cho giáo dục đại học.
Việc tăng tỷ trọng chi này được coi là đột phá tài chính, chấm dứt tình trạng đầu tư manh mún và thiếu bền vững. Song song đó, Nghị quyết chủ trương xây dựng Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển giáo dục đào tạo, cùng chính sách ưu đãi về đất đai, tín dụng, thuế để huy động tối đa nguồn lực xã hội, khuyến khích giáo dục ngoài công lập.
Bộ Chính trị thể hiện rõ quan điểm, chi ít nhất 20% tổng chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục, cùng các chế độ ưu đãi lớn cho đội ngũ nhà giáo. Bà Nguyễn Thị Việt Nga - Ủy viên Ủy ban Văn hóa - Xã hội của Quốc hội nhấn mạnh, chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục và đào tạo luôn là vấn đề được quan tâm và thường xuyên đặt ra nhiều băn khoăn.
Trong Nghị quyết 71, Bộ Chính trị thể hiện rõ quan điểm ưu tiên đặc biệt cho lĩnh vực này, coi đây là khoản đầu tư chiến lược, không phải chi phí thông thường. Điều này cho thấy bước chuyển mới trong nhận thức và hành động, khi giáo dục được khẳng định là yếu tố quyết định tương lai dân tộc.
Tuy nhiên, vấn đề không chỉ là tỷ lệ chi ngân sách, mà còn là hiệu quả sử dụng. Dù tỷ trọng ngân sách dành cho giáo dục đã cao, nhưng kết quả chưa tương xứng, còn tình trạng dàn trải, thiếu tập trung cho cơ sở vật chất vùng khó khăn, chính sách đãi ngộ giáo viên hay nâng cao chất lượng đào tạo.
Nghị quyết 71 yêu cầu vừa tăng chi, vừa đổi mới phương thức phân bổ và giám sát. Cần phân cấp rõ ràng, có cơ chế minh bạch, gắn trách nhiệm giải trình với từng đồng ngân sách. Đồng thời, phải coi trọng xã hội hóa, huy động mạnh mẽ các nguồn lực hợp pháp từ cộng đồng, doanh nghiệp, quỹ khuyến học, học bổng. Ngân sách cho giáo dục trong thời gian tới cần không chỉ nhiều hơn mà quan trọng là hiệu quả hơn, thực sự đến được với học sinh, giáo viên và các khâu then chốt.
“Có thực mới vực được đạo”, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức – Chủ tịch Hội đồng Giáo sư cơ sở, Trường Đại học Công nghệ (Đại học Quốc gia Hà Nội) nêu quan điểm. Ông cho rằng, việc tăng đầu tư, tăng tổng chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục, cho đội ngũ nhà giáo không chỉ thể hiện sự quan tâm thiết thực của Đảng cho giáo dục, mà còn chính là giải pháp cụ thể của Đảng và Nhà nước góp phần thực hiện bằng được mục tiêu đề ra cho ngành Giáo dục.
Sự đầu tư thỏa đáng này sẽ đóng vai trò quan trọng để thực hiện, hiện đại hóa nhà trường, để các trường được “trường ra trường, lớp ra lớp”. Đồng thời có đầu tư, sẽ có trang thiết bị hiện đại để nâng cao chất lượng đào tạo, gắn đào tạo với nghiên cứu và gắn hoạt động đổi mới sáng tạo của các trường với doanh nghiệp tốt hơn và nhanh hơn nữa.
“Đòn bẩy” quan trọng
Theo GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, những giải pháp tài chính trên là những đòn bẩy rất quan trọng, trực tiếp góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đại học, đẩy nhanh tốc độ hội nhập quốc tế của hệ thống giáo dục Việt Nam.
Nghị quyết 71 khẳng định bảo đảm quyền tự chủ đầy đủ và toàn diện cho các cơ sở giáo dục đại học, không phụ thuộc vào mức độ tự chủ tài chính. Từng là người tham gia công tác chỉ đạo điều hành, lãnh đạo một trường đại học, tôi tâm đắc và đánh giá đây là chỉ đạo sáng suốt, quyết liệt, đúng và trúng mong mỏi các cơ sở giáo dục đại học.
“Những năm qua, tự chủ đại học như luồng gió mới đã làm thay da đổi thịt nhiều trường đại học. Tuy nhiên cũng còn một số điểm nghẽn, hạn chế kìm hãm và ràng buộc. Với chỉ đạo về tự chủ đại học như vậy, tôi tin tưởng các luật, chính sách sẽ được sửa đổi theo tinh thần Nghị quyết, và Nghị quyết 71-NQ/TW thực sự sẽ là “khoán 10” trong giáo dục đại học Việt Nam, đem lại những phát triển mạnh mẽ và đột phá cho giáo dục đại học”, GS.TSKH Nguyễn Đình Đức nhận định.
Theo GS.TS Nguyễn Quý Thanh, khi các điểm nút về quản trị, tự chủ và tài chính được tháo gỡ, bước đi tiếp theo là phân tầng đại học – chủ trương đã được nhiều quốc gia áp dụng thành công: Muốn có trường top quốc tế, phải đầu tư cực kỳ lớn cho một số trường. Không thể dàn hàng ngang, trường nào cũng như nhau.
Ông dẫn chứng các chương trình nổi tiếng như: Dự án 211, 985 của Trung Quốc hay Brain Korea 21 của Hàn Quốc, nơi Chính phủ đổ nguồn lực khổng lồ vào một số trường đại học mũi nhọn, giúp họ đủ sức cạnh tranh trong các bảng xếp hạng quốc tế. Việt Nam cũng cần công khai phân tầng: Xác định nhóm trường tinh hoa để đầu tư tập trung, từ đó tạo “đầu kéo” cho cả hệ thống.
GS.TS Nguyễn Quý Thanh nhấn mạnh, phân tầng không chỉ là chuyện đầu tư tiền bạc, mà còn liên quan đến kỷ luật tuyển sinh và sứ mệnh đào tạo. Các trường tinh hoa phải giữ chất lượng đầu vào ở mức cao, chỉ tuyển nhóm sinh viên top 2 - 2,5% để bảo đảm chuẩn đầu ra thật sự tinh hoa.
Còn nhóm trường còn lại cần vận hành ổn định, đáp ứng nhu cầu nhân lực phổ thông cho sản xuất, khu công nghiệp, với quy mô và chi phí hợp lý. Đây là cách duy nhất để vừa xây dựng được một số đại học đẳng cấp quốc tế, vừa duy trì cơ hội tiếp cận công bằng cho đa số người học trong xã hội. Nếu không phân tầng, chúng ta sẽ tiếp tục dàn hàng ngang – vừa tốn kém vừa khó tạo ra trường đại học đẳng cấp quốc tế.
Giờ là lúc giáo dục đại học Việt Nam phải triển khai quyết liệt. GS.TS Nguyễn Quý Thanh cho rằng, hệ thống cần một mô hình quản trị rõ ràng, nơi vai trò của Đảng ủy, hội đồng trường và ban giám hiệu được xác định minh bạch, không còn chồng chéo. Tự chủ đại học phải được hiểu đúng nghĩa – không còn gắn với cắt ngân sách, để các trường bớt áp lực tăng học phí và có điều kiện đầu tư dài hạn.
Tài chính cho giáo dục đại học cũng phải bền vững hơn, với ngân sách tăng, quỹ học bổng hoạt động độc lập và nguồn lực phân bổ có trọng điểm. Và quan trọng nhất, hệ thống cần phân tầng minh bạch, ít nhưng mạnh, đủ sức đào tạo ra đội ngũ nhân lực tinh hoa có thể cạnh tranh toàn cầu.
Nếu những điều chỉnh này được luật hóa và triển khai nghiêm túc, Việt Nam sẽ sở hữu một hệ thống giáo dục đại học “ít nhưng tinh”, đủ sức cung cấp nguồn nhân lực trình độ cao, đóng góp cho mục tiêu phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế.
Cũng theo bà Nguyễn Thị Việt Nga, Nghị quyết 71 thể hiện quyết tâm trong việc nâng tầm giáo dục đại học Việt Nam ngang hàng khu vực và thế giới. Điều này thể hiện rõ trong chỉ đạo khẩn trương xây dựng khung chiến lược phát triển giáo dục đại học, trong đó yêu cầu có cơ chế đặc thù, vượt trội, đầu tư để phát triển 3 - 5 đại học tinh hoa theo mô hình đại học nghiên cứu đẳng cấp quốc tế, đào tạo nhân tài quốc gia.
Trong bối cảnh nguồn lực hạn chế, việc tập trung đầu tư tạo “đầu tàu” để kéo hệ thống cùng phát triển là đúng đắn và khả thi. Các đại học tinh hoa sẽ được lựa chọn theo tiêu chí minh bạch: Năng lực đào tạo, đội ngũ giảng viên trình độ cao, cơ sở vật chất hiện đại, môi trường học thuật quốc tế, khả năng nghiên cứu.
Khi hội tụ đủ điều kiện, các trường này không chỉ đào tạo nhân lực đỉnh cao mà còn dẫn dắt đổi mới, chuyển giao công nghệ, kết nối với các trường hàng đầu thế giới. Để phát triển thành công, cần hai điều kiện: Cơ chế đặc thù về tài chính, tự chủ, nhân tài; Tránh phân hóa quá lớn, khiến khoảng cách giữa trường tinh hoa và trường khác ngày càng xa.
Các trường tinh hoa phải trở thành “đầu tàu kéo” chứ không phải “ốc đảo”. Việc xây dựng 3 - 5 đại học tinh hoa không chỉ nâng cao chất lượng giáo dục đại học, mà còn mang ý nghĩa chiến lược: Tạo nhân lực đỉnh cao, dẫn dắt khoa học – công nghệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và khẳng định vị thế giáo dục Việt Nam trên bản đồ tri thức toàn cầu.
Theo GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Nghị quyết 71 cộng hưởng với Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị “Về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia” quyết liệt chỉ đạo xây dựng những mô hình đại học mới - đại học đổi mới sáng tạo, đại học công nghệ thế hệ mới, để trở thành nòng cốt và “đầu tàu” đổi mới, dẫn dắt hệ sinh thái đổi mới sáng tạo của Việt Nam.





   







