A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Vượt khó khăn để số hóa 100% di tích tại Hà Nội

Hà Nội - Dù còn nhiều khó khăn trong công tác số hóa nhưng một số nơi tại Hà Nội đã thực hiện được mục tiêu số hóa 100% di tích trên địa bàn.

Đạt mục tiêu số hóa trước thời hạn

UBND TP Hà Nội ban hành kế hoạch bảo tồn, phát huy giá trị di sản đến năm 2025, trong đó mục tiêu 100% di tích được số hóa, phục vụ quản lý và quảng bá.

Trước ngày 1.7.2025 - thời điểm chưa sáp nhập địa giới hành chính, quận Hai Bà Trưng (cũ) đã hoàn thành triển khai số hóa 360° cho toàn bộ 100% các điểm di tích trên địa bàn và số hóa 3D các hiện vật, cổ vật có tại các điểm di tích.

Với sự nỗ lực, quyết tâm, quận Hai Bà Trưng (cũ) là đơn vị đầu tiên của TP Hà Nội hoàn thành số hóa di tích. Theo đó, toàn bộ thông tin giới thiệu về 51 di tích đã được số hóa trên website "360° di tích lịch sử - văn hóa quận Hai Bà Trưng, TP Hà Nội".

Sau khi sáp nhập, 51 di tích của quận Hai Bà Trưng (cũ) được 3 phường quản lý, trong đó phường Hai Bà Trưng quản lý 32 di tích lịch sử, văn hóa.

Cụm di tích kiến trúc - nghệ thuật đền Hai Bà Trưng, đình Đồng Nhân và chùa Viên Minh. Ảnh: Vũ Linh
Cụm di tích kiến trúc - nghệ thuật đền Hai Bà Trưng, đình Đồng Nhân và chùa Viên Minh. Ảnh: Vũ Linh

Nổi bật là cụm di tích kiến trúc - nghệ thuật đền Hai Bà Trưng, đình Đồng Nhân và chùa Viên Minh. Với giá trị đặc biệt về lịch sử, văn hóa và kiến trúc, nơi đây đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt vào cuối năm 2019. Đến năm 2025, Lễ hội đền Hai Bà Trưng tiếp tục được ghi nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Hòa cùng dòng chảy của chuyển đổi số, cụm di tích đã được ứng dụng công nghệ để đưa di sản đến gần hơn với công chúng. Tại điểm di tích, hệ thống mã QR được bố trí thuận tiện, giúp du khách dễ dàng tra cứu thông tin về lịch sử, kiến trúc, hiện vật chỉ bằng một thao tác quét đơn giản trên điện thoại thông minh.

Website "360° Di tích lịch sử quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội" được tích hợp âm thanh, video, hình ảnh, bài viết thuyết minh tạo trải nghiệm đa phương tiện cho người dùng. Tích hợp bản đồ số, thuyết minh tự động, tra cứu thông tin bằng mã QR, cung cấp thông tin chi tiết về vị trí và đối tượng của từng di tích. Qua đó, tạo điều kiện cho du khách dễ dàng tìm kiếm, di chuyển đến các điểm đến du lịch.

Bên cạnh đó, nhờ việc ứng dụng công nghệ du khách có thể khám phá, tương tác với các hiện vật 3D gắn với từng điểm di tích, tự do tương tác với hiện vật, xoay, lật, khám phá từng chi tiết một cách trực tiếp (đây là ứng dụng công nghệ thông tin chuyên sâu trong lĩnh vực du lịch, đã và đang được triển khai rất thành công tại các khu du lịch, di tích, bảo tàng nổi tiếng trên thế giới).

Các mã QR được bố trí thuận tiện, giúp du khách dễ dàng tra cứu thông tin. Ảnh: Vũ Linh
Các mã QR được bố trí thuận tiện, giúp du khách dễ dàng tra cứu thông tin. Ảnh: Vũ Linh

Bà Nguyễn Thu Hà (63 tuổi, sống tại Hà Nội) chia sẻ: “Tôi chỉ cần mở điện thoại là có thể vào xem từng gian thờ, từng bức tượng trong đền. Dù không trực tiếp đến nơi, tôi vẫn thấy rõ từng chi tiết. Công nghệ này giúp tôi cảm nhận di tích theo cách rất mới, dễ tiếp cận và thú vị”.

Chị Đào Thị Thu Phương - Chuyên viên Phòng Văn hóa - Xã hội, phường Hai Bà Trưng - cho biết, kể từ khi tiến hành số hóa các di tích, di sản trên địa bàn, số lượng du khách đến đông hơn hẳn so với thời điểm trước - một tín hiệu đáng mừng trong quá trình số hóa.

Vượt khó khăn để số hóa di tích

Dù đã số hóa được 100% di tích, chị Đào Thị Thu Phương - Chuyên viên Phòng Văn hóa - Xã hội, phường Hai Bà Trưng - cho biết, sau khi thực hiện sáp nhập địa giới hành chính, công tác quản lý di tích trên địa bàn vẫn gặp không ít thách thức, đặc biệt là vấn đề nhân lực và khoảng cách địa lý. Các di tích ở phường Hai Bà Trưng chủ yếu là các đền, đình, chùa, trước đây khi chưa sáp nhập, quy mô nhỏ nên dễ quản lý hơn. Sau sáp nhập, số lượng di tích nhiều hơn nên gây khó khăn trong việc đi lại, giám sát và bảo đảm an ninh trật tự.

Bên cạnh đó, chị Phương cho rằng nhân lực trông coi tại các điểm di tích cũng hạn chế, đặc biệt là tại các chùa, khi bước vào Ba tháng An cư kiết hạ (từ 15.4 Âm lịch - 15.7 Âm lịch), các sư thầy sẽ ít có thời gian trông coi tại các điểm di tích nên nếu áp dụng số hóa tại đây, việc truyền đạt tới các du khách sẽ gặp khó khăn.

Do đó, một trong những khó khăn lớn hiện nay là việc tìm được nhân sự có thể đảm nhiệm song song hai nhiệm vụ: vừa am hiểu văn hóa, vừa thành thạo công nghệ để hỗ trợ công tác số hóa.

Chị Đào Thị Thu Phương chia sẻ về những thuận lợi và khó khăn khi số hóa di tích. Ảnh: Vũ Linh
Chị Đào Thị Thu Phương chia sẻ về những thuận lợi và khó khăn khi số hóa di tích. Ảnh: Vũ Linh

Đồng thời, dù đã triển khai các điểm quét mã QR tại các di tích để cung cấp thông tin tới du khách, nhưng phần lớn người cao tuổi vẫn còn lúng túng khi sử dụng thiết bị điện tử, khiến việc ứng dụng công nghệ chưa được cao, còn nhiều khó khăn.

Trước thực trạng đó, chị Phương cho rằng: "Tôi nghĩ rằng việc đào tạo những nhân lực am hiểu về số hóa và di tích là rất cần thiết để tăng cường nhân lực cho các điểm di tích, có như vậy, công tác số hóa mới phát huy được hiệu quả".

Nói về khó khăn trong công tác số hóa di tích, di sản, Nhà nghiên cứu văn hóa - TS Nguyễn Ánh Hồng (Học viện Báo chí và Tuyên truyền) - cho rằng, trở ngại đầu tiên nằm ở công đoạn sưu tầm, phân loại và đánh giá - làm sao để xác định chính xác giá trị của từng loại hình di sản, xây dựng một quy trình số hóa mang tính tổng quát, thống nhất là bài toán không dễ giải.

Để thực hiện chương trình số hóa di sản tại Hà Nội nói riêng và trên toàn quốc nói chung, PGS.TS Trần Trọng Dương - Giảng viên Trường Ngoại ngữ - Du lịch, Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội - cũng cho rằng cần một lộ trình bài bản, hệ thống, có tính chiến lược và kế thừa. Trước hết, phải có đội ngũ “kiến trúc sư tổng thể” - gồm các nhà nghiên cứu, nhà quản lý và kỹ thuật viên giàu kinh nghiệm - xây dựng một khung pháp lý, bộ tiêu chuẩn kỹ thuật, phương pháp thực hiện, định hướng tổng thể cho toàn bộ chương trình số hóa. Việc triển khai phải theo hệ thống từ Trung ương đến địa phương.

Trong đó, yếu tố quan trọng nhất là đào tạo con người. Các cán bộ văn hóa Hà Nội cần được trang bị kiến thức cơ bản về pháp lý, kỹ thuật, chuyên môn để thực hiện tốt các nhiệm vụ như sưu tầm số, bảo tồn số, quản lý số và bảo đảm an ninh dữ liệu, an ninh mạng. Giai đoạn đầu của chương trình phải đi chậm, chắc, có tính hệ thống và được triển khai đồng bộ tại các di tích trong nội thành và cả ngoại thành. Việc triển khai này dù tốn thời gian, công sức nhưng sẽ tạo nền tảng vững chắc. Đồng thời, cũng cần tính đến phương án đào tạo trọng điểm theo địa phương, theo đặc thù từng loại hình di sản và bố trí kinh phí tương ứng.

Ngoài việc số hóa di tích, di sản tại Hà Nội, cũng cần sớm xây dựng cơ sở dữ liệu di sản toàn quốc trên nền tảng liên thông thống nhất, thông qua một cổng thông tin quốc gia. Các cơ sở dữ liệu số cần được thiết kế vững chắc, có khả năng duy trì lâu dài, tránh tình trạng sau vài năm đã lạc hậu hoặc không còn sử dụng được, gây lãng phí nguồn lực và công sức.


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Bài tin liên quan