Chuyện học xưa và nay: Vị đại khoa có biệt tài cầm quân dẹp giặc
Không chỉ là vị đại khoa hay chữ, Tiến sĩ Bùi Tuấn còn được biết đến với biệt tài cầm quân đánh giặc, đem lại yên bình cho quốc gia xã tắc.
![]() |
Đình Ba Thôn xã Liên Bạt – nơi lưu giữ nhiều dấu ấn các nhà khoa bảng. |
Bùi Tuấn (1808 - 1872), tự Trạch Phủ, hiệu Khắc Trai, là con trai cụ Đoan Khiết Bùi Bỉnh Nhuận và cụ bà Bùi Từ Tường, quê Liên Bạt - tức làng Bặt (Ứng Hòa, Hà Nội). Hai cụ thân sinh ra Bùi Tuấn đều là nông dân có cuộc sống đạm bạc, cần kiệm. Bằng sự nỗ lực của bản thân, Bùi Tuấn đã thành đạt vang danh khoa trường.
Tiến sĩ khai sẽ khoa làng Bặt
Gia phả họ Bùi ở làng Bặt cho biết vốn gốc họ Nguyễn, đến đời cụ Thanh Hòa sống thời nhà Trần đổi thành họ Bùi. Họ Bùi gốc Nguyễn làng Bặt đến đời thứ 7 thì bắt đầu phát khoa với Bùi Châm (1675 - 1734) đỗ Sinh đồ khoa Ất Dậu (1705). Hai đời tiếp theo đều có người đỗ Sinh đồ là Bùi Bỉnh Di và Bùi Thuyên.
Đến đời thứ 11 mạch học lại được kế tiếp với Bùi Trí Trung đỗ Tú tài khoa Tân Mão đời Minh Mạng (1831) và lại kế tiếp ở hai đời sau. Đến đời Bùi Châm, dòng họ bắt đầu phân chi, chi thứ của Bỉnh Hành gọi là tiểu tông, có nhà thờ Dụ Đức đường. Đến đời thứ 10, chi tiểu tông này lại phân ngành, ngành trưởng vẫn giữ nhà thờ Dụ Đức đường; còn ngành thứ là Bùi Tới có nhà thờ Thiệu Đức đường. Ngành này phát khoa rực rỡ với 2 tiến sĩ và 2 cử nhân, 2 tú tài mà người mở đầu là Bùi Tuấn (đời thứ 11).
Tuy là con nhà nông dân nhưng từ nhỏ, Bùi Tuấn đã có ý chí khoa cử hơn hẳn các bạn đồng lứa. Ông thường mang sách ra chùa làng học nhờ cho yên tĩnh. Nhờ vậy, ông đỗ Sinh đồ khi mới 18 tuổi, sau đó lại đỗ Tú tài tại 3 khoa: Mậu Tý (1828), Tân Mão (1831) và Đinh Dậu (1837).
Đến khoa Canh Tý (1840), ông đỗ Giải nguyên khoa thi Hương tại trường thi Hà Nội. Năm sau, ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân. Bởi vậy mà ở phủ Ứng Thiên xưa mới có câu đồng giao: “Làng Bặt có cụ Khắc Trai, giải Nguyên, Tiến sĩ từ ngài khai khoa”.
Sau khi đỗ Tiến sĩ năm 1841, Bùi Tuấn được bổ làm Biên tu Hàn lâm viện. Từ năm 1842 - 1853 lần lượt qua các cương vị: Phúc khảo trường thi Hương ở Nghệ An (1842), Tri phủ Thọ Xuân (1844), Tập hiến viên thị độc (1849), Thị giảng học sĩ, chư khảo trường thi Hương Nghệ An (1850)…
Năm 1847 khi giữ chức Án sát tỉnh Sơn Tây, Tiến sĩ Bùi Tuấn cho đắp đê chống lụt dưới chân núi Tản. Năm 1854, ông giữ chức Thị độc học sĩ, Lục bộ lang trung, tham gia đóng góp trong việc biên soạn sách sử tại Quốc sử quán triều Nguyễn với 2 bộ “Vân Hải” và “Vịnh sử phú”, hiện vẫn còn lưu giữ ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
Năm 1858, ông làm giám khảo trường thi Nghệ An, Nam Định. Năm 1865 được ban kim khánh khắc 4 chữ “Liêm, Bình, Cần, Cán”. Năm 1866 được thăng Binh bộ Tả tham tri, bên cạnh Nguyễn Tri Phương là Thượng thư Binh bộ.
Năm 1868, triều Nguyễn bổ nhiệm Bùi Tuấn giữ chức Quyền Tổng đốc Ninh Thái gồm Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên, Bắc Kạn, quản lý một vùng rộng lớn sát biên giới Việt - Trung. Thời kỳ này ở Bắc Kỳ có nhiều giặc cướp bóc, lại bị phỉ Tàu vượt biên sang cướp phá, lấn chiếm đất đai, giết hại dân nghèo.
Chân dung Tiến sĩ Bùi Tuấn.
Cầm quân xông pha trận mạc
Triều đình Huế cử Bùi Tuấn đảm nhiệm trọng trách “Tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ” để giữ yên bờ cõi một thời gian dài. Chính vào thời kỳ này, những tư tưởng quân sự của ông có cơ hội phát huy.
Tháng 3/1869, Đề đốc Phùng Tử Tài nhà Thanh, đem đại binh ra cửa ải Nam Quan để hợp với quân nhà Nguyễn tiễu phỉ. Quân nhà Nguyễn được điều động với số lượng rất lớn mà dân công vận tải lương thực, vũ khí có hạn.
Tổng đốc Vũ Trọng Bình xin triều đình lấy dân phu các hạt, tỉnh miền Bắc giải hộ mỗi tháng thay đổi một lần, tức là thay phiên. Giải pháp này xem ra chưa phải là thượng sách. Trước tình hình đó, Bùi Tuấn dâng sớ: “Nếu bắt dân tỉnh Bắc lên tỉnh Lạng để phụ giải e sẽ tốn kém nhiều. Huống chi đem dân Trung Châu làm việc nơi biến chướng thiết tưởng dân tình sẽ mắc mớ, sinh nhiều việc. Nên trích lấy quân đóng ở đao quân thứ ở tỉnh Lạng vận tải lên”. Sáng kiến này được vua Tự Đức đồng ý, đỡ cho 8.000 dân công Nam Định, Hải Dương, Hà Nội, Hưng Yên, Bắc Ninh bớt vất vả.
Tháng 7/1869, đầu mục giặc Tàu là Ngô Côn tiến vào vây hãm thành Bắc Ninh. Bùi Tuấn chủ trì phòng thủ, trong thành chỉ còn 300 quân canh giữ. Bùi Tuấn phái con trai trưởng là Bùi Kiệm và con trai thứ là Bùi Tập đi kiểm tra và phân phối lương thực, động viên binh sĩ ở các doanh trại, kêu gọi dân ngoài phố vào trong thành trực ẩn, cho soát xét tại lao ngục và canh giữ cẩn mật bọn trọng tội, giữ gìn kho
Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa thi Tân Sửu (1841) – Bùi Tuấn đỗ tên đứng thứ 2 hàng Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân.
Ngày 13/7, thám báo về bẩm nơi ở của giặc Ngô Côn là nhà thủ hộ ở ngoại thành, quân giặc ra vào tấp nập. Bùi Tuấn đưa súng thần công lên mặt thành, chỉ huy pháo kích tiêu diệt. Ngô Côn trúng đạn chết ngay tại trận, đồng đảng tháo chạy. Sách “Đại Nam thực lục” viết: “Bọn các ông Nguyễn Văn Phong và Bùi Tuấn dựa vào thành cố giữ. Trong thành cùng bắn ra. Ngô Côn trúng đạn. Bọn giặc rút về Đại Bàng. Ta thừa thắng đuổi giặc ở Đại Bàng, tiến quân thông với quân thứ Thái Nguyễn”.
Hơn một năm sau, lại có bè đảng giặc Tàu là Tô Tú tràn sang đánh úp cướp thành Lạng Sơn. Bùi Tuấn lại đề xuất với triều đình Huế tập trung binh lực càn quét giặc khỏi lãnh thổ. Quân của Tiến sĩ Bùi Tuấn xông pha, bắt và xử tại trận hai tướng Tàu là Phó đề đốc Đồ Chuyên và Nguyễn Nhiếp để uy hiếp tàn quân, khiến cho danh tiếng ngày càng vang xa.
Khi ấy ở vùng Nam Định, Tú tài Lê Đường tập hợp một số nho sinh đi đốt phá nhà dân theo đạo Ki-tô ở 2 làng Trình Xuyên và Ngọc Thành. Quan địa phương là Tổng đốc Đào Trí lúng túng không biết xử trí ra sao, vua Tự Đức chỉ dụ cho Bùi Tuấn làm Khâm sai đại thần đến giải quyết vụ việc, lập tòa án tại dinh Tổng đốc để xét hỏi.
Lúc đầu, Lê Đường vặn lại Tổng đốc Đào Trí: “Quan lớn không nghe ngày xưa ông Phạm Trạng Yên lúc đỗ Tú tài đã lấy việc thiên hạ làm việc mình sao?”. Khâm sai Bùi Tuấn giả làm mặt giận thét: “Ông Phạm Trạng Yên cũng đốt nhà người ta làm hại dân để mang tiếng cho đồng bối như nhà ngươi à?”. Lúc đó Lê Đường mới chịu nhận tội. Việc làm công minh đó khiến đồng bào lương giáo hết lòng ca ngợi.
Vua Tự Đức nghe kết quả vụ án thì rất hài lòng, ban khen thưởng Bùi Tuấn. Khi vụ án kết thúc, đến kỳ trình văn của tỉnh ở dinh Đốc học Nam Định, quan Khâm sai Bùi Tuấn cùng các quan trong tỉnh tới dự. Các nho sinh nói với nhau: “Quan Khâm sai đi làm quan lâu ngày, kinh sách chắc sẽ quên nhiều, văn bài hơn kém chưa chắc có để ý”.
Tới lúc bình các đầu bài chế, Bùi Tuấn tham giảng nghĩa cách, lại dẫn “Đại toàn thế chủ”, và sai lấy sách ra đối chiếu không sai chỗ nào. Có quyển văn dùng điển tích hiểm hóc, các quan ngồi đấy không nhớ, ngớ hết cả người, Bùi Tuấn lại mách cho ở sách nào, khen - chê đều xác đáng. Sau khi về dinh, các quan và nho sinh trong tỉnh đều phục, nói: “Trong trí ngài như có tủ sách”.
Di vật được bảo lưu tại nhà thờ họ Bùi.
Công lao đức độ, để phúc cho con cháu
Năm 1872, Tiến sĩ Bùi Tuấn được thăng chức Tổng đốc Ninh Thái, nhưng sau đó ông bị ốm, liền xin nghỉ chữa bệnh. Chưa kịp về thì ông mất tại nhiệm sở dinh Tổng đốc Ninh Thái, thọ 65 tuổi. Triều đình truy tặng ông chức Thượng thư bộ Binh, hàm Thái tử Thiếu bảo.
Dụ viếng Tiến sĩ Bùi Tuấn của vua Tự Đức, do Tổng đốc Nguyễn Tri Phương đọc trong tang lễ, có đoạn viết: “Từ ngày nhậm công việc khó khăn đã được hơn 3 năm, có kế sách phòng thủ, luôn lo lắng việc quân, nên khi giặc vây hãm đã có đủ sức bảo vệ thành. Phàm mọi việc khẩn cấp trong quân sự, Bùi Tuấn đều tỏ rõ tài năng làm giảm nỗi lo của triều đình đối với phương Bắc”.
Bùi Tuấn có 6 người con trai, trong đó người con thứ sáu là Bùi Vi (1869 - 1919) đỗ đạt. Khi Bùi Tuấn mất thì Bùi Vi mới 3 tuổi, nhưng lớn lên vẫn gắng học tập và đỗ Cử nhân hạng thứ 17/42 khoa Canh Tý (1900) tại trường Thừa Thiên, làm Giáo thụ phủ Bình Giang (Hải Dương).
Văn bia cổ trong nhà thờ họ Bùi tại xã Liên Bạt.
Những người còn lại tuy không đỗ đạt, song người con cả là Bùi Kiệm (1836 - 1873), sinh được 2 con trai, con trai cả là Bùi Hữu Nghiêm 2 lần đỗ Tú tài dưới thời Thành Thái. Người con thứ hai là Bùi Tập, được tập ấm, làm quan đến Tuần phủ Hưng Hóa, hàm Thị lang, sinh được 3 người con trai làm rạng danh họ Bùi.
Con cả là Bùi Bằng Phấn (1882 - 1949) là cháu nội Bùi Tuấn. Thuở nhỏ, ông cùng các em sống với bố ở Nam Định. Nhưng rồi, lần lượt bố và mẹ mất, ông cùng 5 em đều ở tuổi thơ ấu phải trở về quê, ăn học dưới mái nhà thờ Thiệu Đức đường, với sự giúp đỡ của người chú dượng là Thiếu bảo Dương Lâm - người làng Vân Đình cùng các chú bác trong gia tộc.
Đến năm Bính Ngọ đời Thành Thái, cả ba anh em cùng đi thi thì Bùi Bằng Phấn đỗ Tú tài, còn hai em là Bằng Thuận và Bằng Đoàn đều đỗ Cử nhân. Về sau, Bùi Bằng Phấn nghĩ mình là con trưởng, phải có trách nhiệm trông nom nhà thờ, phần mộ tổ tiên nên ông ở nhà không đi thi tiếp.
Con thứ là Bùi Bằng Thuận (1883 - 1947) dự thi hai khoa chỉ đỗ thấp hoặc không đỗ. Đến khoa Bính Ngọ (1906) mới đỗ Cử nhân hạng thứ 7/50 tại trường thi Hà Nam (khoa này, anh ông là Bằng Phấn đỗ Tú tài, em là Bằng Đoàn đỗ Cử nhân). Vào thi Đình ông không đạt. Tháng Ba năm Bính Thìn đời vua Khải Định (1916), dự kỳ thi Hội và đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, rồi làm quan đến Tuần phủ Bắc Giang, Tham tri.
Con thứ ba là Bùi Bằng Đoàn (1889 - 1955) đỗ Cử nhân hạng 47/50 cùng khoa với Tiến sĩ Bùi Bằng Thuận, làm quan đến Thượng thư bộ Hình. Sau khi Nhật đảo chính Pháp, Bùi Bằng Đoàn về quê ẩn dật. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, ông tham gia vào các hoạt động của tổ chức yêu nước ở Hà Nội rồi lên chiến khu Việt Bắc tham gia các hoạt động kháng chiến, làm Trưởng ban Thường vụ Quốc hội.
“Tướng công đã đỗ đầu khoa thi Hương và đỗ Tiến sĩ cập đệ. Tướng công làm quan trong triều hơn 30 năm. Dụ chỉ của nhà vua cũng nêu lòng thương tiếc và ghi công hai lần tướng công đi dẹp giặc. Tướng công thật đã không hổ thẹn là bậc hình thần đã có công lao vất vả ở ngoài cõi cho đến tận lúc mất đi. Nay viết văn này để công bố cho mọi người đều biết. Công lao ở trong triều, sự nghiệp ngoài biên ải, niềm mến yêu trong lòng dân, nỗi thương tiếc trong nhân sĩ đâu phải là ý riêng của một nhà”. - Văn bia do danh sĩ Dương Lâm soạn