Tướng Dạ Xoa và hành trình ghi danh Hội hát Chèo tàu
Hội hát Chèo tàu Tổng Gối xã Tân Hội (Đan Phượng, Hà Nội) vừa được ghi danh di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
![]() |
Miếu Voi Phục thờ Văn Dĩ Thành làm Thành hoàng làng. Ảnh: Sở VH-TT Hà Nội |
Thế nhưng ít ai biết rằng, hát Chèo tàu phát xuất từ vị tướng Văn Dĩ Thành, người có công chống giặc Minh.
Theo thần tích ghi chép về tướng quân Văn Dĩ Thành, ông là một nhân thần, quê quán ở làng Thượng Hội. Ông sinh ngày 11/8/1380, hóa ngày 12/3/1416, mộ ở lăng Văn Sơn, được tôn là Thành hoàng và được phụng thờ tại miếu Voi Phục.
Tướng Hắc y Dạ Xoa
Nguồn sử liệu cho biết, tổ tiên Văn Dĩ Thành vốn gốc Bảo Hà (nay thuộc Vĩnh Bảo, Hải Phòng), có truyền thống làm nghề mộc. Cha ông di chuyển đến sinh sống ở Tổng Gối, nay thuộc xã Tân Hội (Đan Phượng, Hà Nội) và sinh ra ông tại đây. Cha Văn Dĩ Thành từng vào Thanh Hóa xây dựng Tây Đô hồi cuối thế kỷ 14 theo lệnh của Hồ Quý Ly.
Năm 1407, nhà Hồ bị nhà Minh đánh bại, nước Đại Ngu bị xâm chiếm. Văn Dĩ Thành tập hợp lực lượng, cùng Lê Ngộ nổi dậy chống quân Minh. Ông lấy vùng Tổng Gối làm căn cứ, chiêu mộ binh lính chống lại giặc. Ông thường dùng sắc phục màu đen nên được gọi là “quân Hắc y”. Cuộc khởi nghĩa cũng được gọi là khởi nghĩa Hắc y. Văn Dĩ Thành cũng được tôn vinh là tướng “Hắc y Dạ Xoa”.
Văn Dĩ Thành đóng đại bản doanh ở gò Đống Đám, giữa cánh đồng Dinh của làng Thượng Hội - một trong bốn làng (Vĩnh Kỳ, Thúy Hội, Thượng Hội, Phan Long) của Tổng Gối. Quân Hắc y sau đó mở rộng hoạt động đến vùng cửa Tây (Đoài Môn) và hồ Tây (Tây Hồ), thành Đông Quan, bên kia sông Cái (sông Hồng), xây dựng thêm căn cứ ở Hạ Lôi, núi Dõm, núi Đôi, Thanh Tước... (thuộc huyện Mê Linh ngày nay).
Văn Dĩ Thành đã định ra “Lục điều kim ngọc” để truyền bá cho dân chúng: “Một là thóc gạo thật nhiều/ Hai dùng chiến thuật lựa theo sức mình/ Ba là quyết đuổi giặc Minh/ Bốn mặt hiểm mật tình hình kín bưng/ Năm là trên dưới một lòng/ Sáu nghiêm quân kỷ, quân phong hàng đầu”.
Ông cũng nêu ra cương lĩnh hoạt động “Tứ vọng giang sơn”, là bốn điều ước vọng vì đất nước, được xem là một tiến bộ vượt thời đại: “Vì quốc gia độc lập/ Vì dân tộc tự do/ Vì dân sinh quốc thái/ Vì bình đẳng dân quyền”.
Sách “Thần ca Cối sử” truyền lại, trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh, Văn Dĩ Thành là Đại nguyên soái cùng với phó tướng là Lê Ngộ đã huy động, chỉ huy một đội quân chiến đấu anh dũng, lập nhiều chiến công hiển hách. Bị nhiều tổn thất, quân Minh lo sợ, cử người tên là Minh Tư đi mua chuộc, dụ dỗ ông nhưng không thành.
Nhân lúc phó tướng Lê Ngộ đưa phần lớn quân Hắc y đi chiến đấu nơi xa, ngày 12/3/1416 quân Minh đánh úp vào đại bản doanh Đống Đám (Thượng Hội). Văn Dĩ Thành cùng nhóm nghĩa binh thân tín tả xung hữu đột, nhưng quân ít, không cự nổi và tử trận. Phó tướng Lê Ngộ nghe tin đưa quân về ứng cứu nhưng không kịp.
Sau khi cuộc kháng chiến chống quân Minh kết thúc, phó tướng Lê Ngộ đã lập đền thờ Đại nguyên soái Văn Dĩ Thành tại nơi ở (miếu Voi Phục). Bản thần tích thần sắc ghi lại rằng: “Miếu là Cổ trạch của ngài, có gò con bút ở đằng sau, Nhuệ Giang diễu qua đằng trước”.
Vì những biến thiên lịch sử nên tư liệu ghi chép về tướng quân Văn Dĩ Thành không còn nhiều. Tuy nhiên, tên tuổi của ông và vị phó tướng Lê Ngộ được Nguyễn Dữ hư cấu hóa thành hai nhân vật chính của “Chuyện tướng Dạ Xoa” (Dạ Xoa bộ soái lục) trong tác phẩm “Truyền kỳ mạn lục”.
Lăng Văn Sơn - nơi an nghỉ của tướng quân Văn Dĩ Thành. Ảnh: Sở VH-TT Hà Nội.
Những giai thoại khác nhau
Miếu Voi Phục được xây dựng vào đời Lê, được trùng tu vào các năm Chính hòa thượng giáp (tức 1688), Vĩnh Thịnh năm thứ ba (tức 1707). Miếu được xây dựng giữa làng Thượng Hội theo kiểu chữ “Công”, gồm hậu cung, trung cung và nhà đại bái. Tư liệu về miếu Voi Phục cho biết, có 62 cột, hệ thống xà con rồng được chạm trổ hoa văn thời Lý.
Gọi là miếu Voi Phục vì ở cổng miếu từ xa xưa, cổ nhân đã đắp đôi voi ở tư thế nằm phủ phục chầu vào. Đất này xưa gọi là Cối Sơn, năm 1569 Trịnh Cối lên ngôi chúa, vì kiêng húy chúa Trịnh nên đất Cối Sơn đổi thành Gối Thượng gồm bốn làng Tổng Gối.
Miếu Voi Phục hiện còn lưu giữ nhiều cổ vật có giá trị, như: Ngai, bài vị, áo choàng, hia đồng, chuông đồng thời Nguyễn, đồ thờ, hoành phi câu đối, 38 đạo sắc phong còn nguyên mộc bản. Trong đó, bản sắc phong sớm nhất vào năm Vĩnh Tộ thứ hai (1621) đời vua Lê Thần Tông, sắc phong muộn nhất vào đời vua Khải Định năm thứ 9 (1924).
Người Tổng Gối xưa đã tự hào viết đôi câu đối tại miếu Voi Phục: “Cố trạch tảo hoa lâm vũ tạp/ Trường giang vân nguyệt ủng khoa trang” (Nhà xưa hoa cỏ thường xanh tốt/ Sông dài trăng nước đẹp khang trang).
Đặc biệt ở tòa Tiền tế, cổ nhân bài trí 4 pho tượng gỗ, mỗi pho cao 1,63m. Các pho tượng này đều được tạc kiểu võ quan, tay cầm binh khí (gươm giáo và voi). Ở đây cũng còn một quả chuông đúc năm Gia Long thứ 18 (1819), mỗi khi hành lễ, thủ từ rung gõ chuông này.
Thần tích cho biết, sau khi hóa, tướng quân Văn Dĩ Thành trôi về cánh đồng Dinh, được nhân dân lập lăng mộ đặt tên là lăng Văn Sơn, và trở thành điểm thiêng của Tổng Gối. Nhân dân bốn thôn đã suy tôn ông làm Thành hoàng làng, và để ca ngợi ân đức của Đại nguyên soái Văn Dĩ Thành, một hình thức nghệ thuật diễn xướng độc đáo đã được dân Tổng Gối xưa sáng tạo ra, đó là hát Chèo tàu.
Bên cạnh đó, ở Tổng Gối có một lý giải khác cho rằng, hội Chèo tàu liên quan đến cuộc hội quân ở bãi Quân Thần (nay thuộc phường Thượng Cát, Bắc Từ Liêm, tiếp giáp với Tổng Gối xưa) giữa Triệu Quang Phục và Lý Phật Tử, bàn việc chia miền đất cai trị cho mỗi bên. Trong cuộc hội quân ấy, Lý Phật Tử đi tàu (thuyền) còn Triệu Quang Phục đi tượng (voi) đến dự. Bởi vậy mà hội hát Chèo tàu như một hình thức tái hiện cuộc hội quân, có thuyền và có voi.
Lại có tích khác kể rằng, ngày xưa Hai Bà Trưng chống quân xâm lược nhà Hán, kéo quân qua Tổng Gối, thuyền bè qua lai trên sông Nhuệ, sông Hồng tấp nập, khí thế ngút trời. Nhân dân tưởng nhớ công lao của Hai Bà nên đã mô phỏng cảnh múa hát của quân tướng Hai Bà lúc nghỉ ngơi, sáng tạo ra loại hình nghệ thuật hát Chèo tàu. Cũng chính vì ý nghĩa này nên hội hát Chèo tàu còn được gọi với một tên khác là hát Tàu Tượng, người tham gia hội hát đều là nữ hoặc nữ giả nam.
Theo nghiên cứu của Sở VH-TT thành phố Hà Nội, ba truyền thuyết này tồn tại song song, giúp hậu thế giải thích nguồn gốc của hội hát Chèo tàu. Tuy nhiên, truyền thuyết về tướng Văn Dĩ Thành là phổ biến nhất và được nhiều chuyên gia đồng tình nhất, thể hiện ở tín ngưỡng địa phương và nội dung các lời ca trong hội đều liên quan đến việc thờ cúng vị tướng này.
Đội nghĩa binh áo đen của tướng Văn Dĩ Thành có cách đánh giặc sở trường: Chèo thuyền trong đêm bí mật đánh quân địch. Đội chèo thuyền ấy chính là các bà, các cô thông thạo sông nước. Các điệu hát được xướng lên từ những người phụ nữ như một sự ca ngợi về lòng dũng cảm, chịu thương, chịu khó của người con gái đất Tổng Gối xưa.
Cũng vì lý do ấy mà hát Chèo tàu chỉ có nữ hát, nữ đóng giả nam trong các vai diễn như quản tượng, thổi tù và: “Tháng Giêng đóng đám ngoài đình/ Trong dư năm tỉnh nức lòng người xem/ Tướng cờ trương kiệu đôi bên/ Giữa thì tàu hát bên thiềng đôi voi”.
Vào những năm định kỳ tại lăng mộ Văn Dĩ Thành hát dân ca nghi lễ thờ thần của cả bốn thôn Thượng Hội, Thúy Hội, Phan Long và Vĩnh Kỳ đều được tổ chức tại đây. Lề lối ca hát được quy định chặt chẽ: Lễ trình, dâng hương, dâng rượu, bài Tàu, bài Tượng, bài hát Lý…
Hàng năm, vào ngày 12 tháng 3 âm lịch là ngày giỗ của tướng quân Văn Dĩ Thành. Ảnh: Sở VH-TT Hà Nội.
Độc đáo Chèo tàu Tổng Gối
Theo hồ sơ di sản, hội Chèo tàu được tổ chức lần đầu tiên vào năm 1683 và theo tục lệ cứ 25 đến 30 năm tổ chức một lần, vào năm mưa thuận gió hòa, bốn thôn được mùa. Tài liệu cũ ghi lại, hội cuối cùng được tổ chức vào năm 1922 và bị gián đoạn do chiến tranh. Đến năm 1998, hội được khôi phục lại.
Hiện, hội Chèo tàu cứ 5 năm được tổ chức một lần diễn ra từ ngày 13 đến ngày 15 tháng Giêng hàng năm, thu hút đông đảo người dân trong vùng tham dự. Còn hằng năm, xã Tân Hội và câu lạc bộ Chèo tàu sẽ dâng lễ ở miếu Voi Phục và lăng Văn Sơn.
Vào năm được tổ chức, ngày 13 tháng Giêng, các cụ cao niên sẽ chịu trách nhiệm việc bao sái đồ thờ, dọn dẹp miếu Voi Phục và lăng Văn Sơn. Sáng sớm ngày 14, lễ rước được tiến hành. Đoàn rước đi đến cổng lăng Văn Sơn làm lễ bái vọng, sau đó rước kiệu ra miếu Voi Phục. Cùng lúc đó, tại lăng Văn Sơn sẽ diễn ra màn hát Chèo tàu. Sáng ngày 15 tháng Giêng các ban tế vẫn tế lễ tại lăng Văn Sơn, miếu Voi Phục và kết thúc vào buổi chiều bằng lễ tế giã.
Hội hát Chèo tàu Tổng Gối lần đầu tiên được tổ chức vào năm 1683 và theo tục lệ cứ 25 đến 30 năm tổ chức một lần. Ảnh: Sở VH-TT Hà Nội.
Đặc sắc nhất trong lễ hội là màn hát Chèo tàu với các làn điệu đối đáp giữa hai tàu - là những chiếc thuyền rồng bằng gỗ, không để hạ thủy mà chèo tượng trưng trên cạn. Mỗi tàu 13 người gồm bà chúa tàu, 2 cái tàu và 10 con tàu. Bà chúa tàu khoảng 50 tuổi, phải là người giỏi múa hát, gia đình song toàn.
Cái tàu và con tàu là gái thanh tân từ 13 - 16 tuổi, gia đình gia giáo, bản thân ngoan ngoãn, hát hay, múa giỏi. Khi biểu diễn, bà chúa tàu đánh thanh la, 2 cái tàu lĩnh xướng và các con tàu hát họa theo. Phía sau là đôi voi với hai quản tượng có nhiệm vụ thổi tù và làm hiệu.
Nội dung của các bài hát trong diễn xướng Chèo tàu là những bài hát riêng và những bài hát đối đáp của “tàu” và “tượng”, đều nhằm ca ngợi công đức của Thành hoàng Tổng Gối Văn Dĩ Thành. Trong đó, có những đoạn, như: “Trùng Quang kể tự đời Trần/ Đại vương hiển tích võ văn kiêm toàn/ Truyền kỳ ghi chép như in/ Lời nghiêm lục ước lệnh truyền Dạ Xoa”.
Hay: “Phụng nghinh thánh giá đã yên/ Lại nghinh tự điển dâng lên miếu đường/ Y quan tế tế dương dương/ Cổ chung quân khánh chương chương hoàng hoàng/ Phong công vĩ tích huy hoàng/ Nước non hoa cổn nét vàng không phai”.
Hát Chèo tàu Tân Hội gồm 20 làn điệu, được chia thành các hình thức như: Hát trình, hát thuyền và hát bỏ bộ. Quy trình hát được thực hiện chặt chẽ theo thứ tự: Lễ trình, dâng hương, dâng rượu, bài tàu (hoặc bài tượng), hát bỏ bộ, hát các bài lý, hát ví… Điều đặc biệt là, tất cả các bài hát của nghệ thuật Chèo tàu cho đến nay vẫn được người dân Tân Hội giữ gìn nguyên vẹn lời ca cổ.
Tại Quyết định số 1351/QĐ-BVHTTDL ngày 14/5/2025, Bộ trưởng Bộ VH,TT&DL Nguyễn Văn Hùng đã ký đưa Lễ hội truyền thống Hội hát Chèo tàu Tổng Gối vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Việc ghi danh Hội hát Chèo tàu Tổng Gối không chỉ nhằm giữ gìn, bảo lưu giá trị tinh hoa truyền thống mà còn góp phần thúc đẩy du lịch văn hóa, lan tỏa nét đẹp di sản dân tộc. Đồng thời, để thế hệ trẻ hiểu thêm về văn hóa - lịch sử và sự sáng tạo của cha ông ta qua các thời kỳ lịch sử.