Đánh thức tiềm năng phát triển từ đồi chè xanh đến điểm du lịch hút khách
Những đồi chè xanh ngút mắt, tiếng hát sình ca ngân bên suối và nếp nhà sàn của người Cao Lan ở xã Xuân Lương đã tạo ra một điểm du lịch hấp dẫn...
![]() |
| Người dân chăm nom, thu hoạch từng đồi chè xanh tươi. |
Từ những đồi chè xanh ngút mắt, tiếng hát sình ca ngân bên suối và nếp nhà sàn của người Cao Lan, những người dân ở xã Xuân Lương (Bắc Ninh) đã tạo ra một điểm du lịch hấp dẫn, thu hút hàng vạn khách, trở thành sản phẩm du lịch OCOP đặc trưng.
Câu chuyện văn hóa truyền thống trên đồi chè xanh
Nhắc lại hành trình phát triển Khu du lịch sinh thái cộng đồng Bản Ven Xanh, xã Xuân Lương (Bắc Ninh), anh Ngô Cao Kiên - Giám đốc điều hành, vẫn nhớ hình ảnh những người Cao Lan, sau ngày hái chè lại tụ họp ca hát, nấu những món ăn truyền thống.
Chính sự mộc mạc ấy thôi thúc anh nghĩ cách kể câu chuyện du lịch hấp dẫn hơn: không chỉ tạo cảnh quan hấp dẫn mà phải đưa văn hóa vào từng trải nghiệm. Nghĩ là làm, anh cùng bà con người đồng bào trong vùng cải tạo nhà sàn, mở đường đi dạo, trồng hoa, làm vườn tre xanh mát và chăm nom từng đồi chè xanh tươi. Song khi bắt tay, khó khăn này sinh. Người dân trong vùng chưa có kinh nghiệm, chuyên môn đón khách nên cần đào tạo lại, học tập thêm kỹ năng mới. Nhờ sự kiên trì, du khách đến Bản Ven tăng đều 20-25%/năm.

Đại biểu thăm quan mô hình làm vườn tre xanh mát.
Chè xanh Bản Ven dần trở nên nổi tiếng hơn, dịch vụ ăn uống - vui chơi được mở rộng, các sản phẩm nông nghiệp đi theo như thịt gác bếp Cao Lan trở thành đặc sản. Người dân có việc làm ổn định, thu nhập 7-8 triệu đồng/tháng. “Trước kia nhiều người phải đi làm công nhân xa nhà, nay có việc làm bền vững ngay tại quê, người hái chè, thu nhập tốt”, anh kể.
Ông Nguyễn Ngọc Toàn - Phó Chủ tịch Thường trực UBND xã Xuân Lương (Bắc Ninh) - cho biết xã có hơn 19.000 dân, trong đó 57% là người Cao Lan, Tày, Nùng… Cảnh quan của khu Xuân Lung - Thác Ngà kết hợp mô hình Bản Ven Xanh đạt chuẩn OCOP 3 sao, mỗi năm đón khoảng 5 vạn lượt khách, góp phần nâng giá trị nông nghiệp và thúc đẩy phát triển đa dạng sinh kế. “Du khách không chỉ tham quan mà còn được trồng chè, hái chè, nghe hát sình ca, nhờ vậy văn hóa địa phương vừa được bảo tồn vừa lan tỏa”, ông Toàn nói.

Người dân làm vườn thu hoạch chè xanh.
Xã Xuân Lương đặt mục tiêu đến năm 2027 không còn hộ nghèo theo chuẩn đa chiều. Tuy nhiên, nguồn kinh phí còn hạn chế, hạ tầng giao thông - đặc biệt đường kết nối các vùng sản xuất - vẫn khó khăn. Xã mong các cấp hỗ trợ đầu tư thêm đường giao thông, hạ tầng du lịch, đồng thời giúp quảng bá sản phẩm địa phương qua livestream, thương mại điện tử như Shopee, TikTok để nông sản tiếp cận rộng hơn đến khách hàng. Bên cạnh chè xanh, xã định hướng phát triển kinh tế rừng, trồng cây dưới tán rừng, các sản phẩm đặc trưng như thịt gác bếp Cao Lan, nhằm tăng thu nhập cho hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ đồng bào dân tộc.
Giữ hồn văn hóa, nâng chất nông sản
Ông Trần Xuân Mười - Chủ tịch Hội Nông dân xã Xuân Lương (tỉnh Bắc Ninh) - kỳ vọng doanh nghiệp và các cấp ngành tiếp tục đồng hành quảng bá, xây dựng thương hiệu chè sạch, giá trị cao. Hội Nông dân xã cũng thúc đẩy phục dựng văn hóa Cao Lan thông qua các sản phẩm như thịt gác bếp, lạp xưởng, xôi ngũ sắc. Đồng thời khôi phục câu lạc bộ tiếng nói dân tộc, hát then, làng nghề thổ cẩm. Một số nghệ nhân đang trực tiếp truyền dạy cho lớp trẻ, giúp văn hóa không bị mai một.

Du khách thích thú trải nghiệm tại Bản Ven Xanh.
Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Bắc Ninh, sở và Hội Nông dân tỉnh đã phối hợp, đẩy mạnh liên kết chuỗi giá trị, tôn vinh sản phẩm nông nghiệp tiêu biểu, đưa OCOP thành nền tảng phát triển kinh tế nông thôn.
Đến nay, tỉnh có 668 sản phẩm OCOP từ 3 sao trở lên. Ngoài OCOP, Bắc Ninh còn tổ chức tôn vinh sản phẩm nông nghiệp tiêu biểu hai năm/lần. Từ năm 2017-2025, có 136 lượt sản phẩm được vinh danh, góp phần khuyến khích sáng tạo và nâng cao chất lượng nông sản.
Thời gian tới, ngành nông nghiệp và Hội Nông dân tỉnh Bắc Ninh tiếp tục tuyên truyền sâu rộng về OCOP và sản phẩm nông nghiệp tiêu biểu; hỗ trợ xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tem truy xuất nguồn gốc. Tăng cường xúc tiến thương mại và quảng bá nông sản; đào tạo, tập huấn kỹ năng cho cán bộ và người sản xuất; nghiên cứu, tham mưu thêm chính sách hỗ trợ phát triển sản phẩm OCOP phù hợp điều kiện từng địa phương.













