A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Từ đổi mới căn bản, toàn diện sang phát triển đột phá

Nghị quyết số 71-NQ/TW là một trong những văn kiện đột phá nhất trong lĩnh vực giáo dục, mở đường cho Việt Nam tiến vào nhóm quốc gia phát triển.

Nghị quyết số 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo

“Tiết học mở” của học sinh TPHCM. Ảnh: TG
“Tiết học mở” của học sinh TPHCM. Ảnh: TG

Thúc đẩy giáo dục phát triển đột phá

TS Phạm Văn Giềng - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 nhận định: Nghị quyết số 71/NQ-TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo được ban hành trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, khẳng định giáo dục không chỉ là nhiệm vụ trọng tâm mà là vấn đề quyết định tương lai dân tộc.

Điểm mới nổi bật so với Nghị quyết số 29-NQ/TW và Kết luận số 91-KL/TW là chuyển từ “đổi mới căn bản, toàn diện” sang “đột phá chiến lược”, thể hiện quyết tâm chính trị mạnh mẽ, gắn trực tiếp với mục tiêu Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045.

Nghị quyết đã chỉ rõ sự hài hòa giữa giáo dục toàn dân và tinh hoa, lần đầu tiên nhấn mạnh rõ yếu tố tinh hoa bên cạnh phổ cập. Đây là bước chuyển tư duy quan trọng, đặt giáo dục đại học vào vai trò đào tạo nhân lực trình độ cao, nhân tài, trong khi giáo dục phổ thông đảm nhiệm nhiệm vụ đào tạo nhân lực nền tảng.

Đồng thời, Nghị quyết mở ra “không gian mới”, giáo dục gắn kết chặt chẽ với khoa học - công nghệ, kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và chuyển đổi số.

Về mục tiêu, theo TS Phạm Văn Giềng, Nghị quyết số 71-NQ/TW đem lại ấn tượng mạnh bởi tính cụ thể, khả năng kiểm chứng. Việt Nam đặt ra chỉ số HDI, GII, tỷ lệ 35% sinh viên học khoa học cơ bản - ngang bằng với các nền giáo dục tiên tiến châu Á như Hàn Quốc, Singapore.

Đến 2030, phấn đấu có 8 đại học vào top 200 châu Á, 1 đại học vào top 100 thế giới; đến 2045, ít nhất 5 trường thuộc nhóm 100 đại học hàng đầu thế giới.

Đây là bước đi có tầm nhìn, học hỏi kinh nghiệm của Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore khi đặt đại học làm trung tâm chiến lược phát triển.

Về giải pháp, Nghị quyết số 71-NQ/TW đề ra hàng loạt chính sách đột phá: Bỏ những rào cản thể chế, phân cấp, phân quyền mạnh mẽ, trao quyền tự chủ toàn diện cho cơ sở giáo dục; tăng chi cho giáo dục đại học lên tối thiểu 3% tổng chi ngân sách Nhà nước, khắc phục tình trạng thiếu đầu tư kéo dài.

Đặc biệt, chính sách đặc thù cho nhà giáo với phụ cấp tối thiểu 70% là bước tiến quan trọng để thu hút, giữ chân nhân lực chất lượng cao. Cùng đó là chính sách đào tạo tài năng, nuôi dưỡng tinh hoa, coi đây là động cơ thúc đẩy quốc gia bứt phá.

Nghị quyết nhấn mạnh đến yêu cầu xây dựng đội ngũ nhà giáo và cơ sở vật chất nhà trường, bố trí đủ đội ngũ giáo viên, thu hút học sinh giỏi theo học ngành sư phạm, xây dựng nhà công vụ cho giáo viên.

Cùng với đó, thay vì chỉ tập trung cải cách từng mặt, Nghị quyết số 71-NQ/TW coi giáo dục như vấn đề sống còn, quyết định tương lai dân tộc, gắn trực tiếp với mục tiêu chiến lược quốc gia đến năm 2045. Đây là bước chuyển từ cải cách mang tính chỉnh sửa sang tư duy kiến tạo và dẫn dắt phát triển quốc gia bằng giáo dục.

Có thể nói, đột phá về quan điểm trong Nghị quyết số 71-NQ/TW chính là sự thay đổi cách nhìn chiến lược: Giáo dục không chỉ cung cấp kiến thức mà còn kiến tạo tương lai; không chỉ dừng ở mục tiêu công bằng, phổ cập mà còn nuôi dưỡng tinh hoa; không chỉ cải thiện trong phạm vi nội bộ mà còn mở rộng không gian phát triển toàn diện, hội nhập và bền vững.

“Nghị quyết số 71-NQ/TW được đánh giá là một trong những văn kiện đột phá nhất từ trước đến nay trong lĩnh vực giáo dục, mở đường cho Việt Nam tiến vào nhóm quốc gia phát triển.

Thành công của Nghị quyết phụ thuộc vào sự đồng lòng của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, trong đó đội ngũ nhà giáo tiếp tục giữ vai trò tiên phong, quyết định để giáo dục trở thành động lực then chốt cho sự phát triển và trường tồn của dân tộc”, TS Phạm Văn Giềng nhận định.

tu-doi-moi-can-ban-toan-dien-sang-phat-trien-dot-pha-1.jpg

Bà Huỳnh Thị Thu Nguyệt, Hiệu trưởng Trường Tiểu học Lê Đình Chinh (Hòa Cường, TP Đà Nẵng) cùng học sinh.

Cơ hội vàng

Ông Nguyễn Minh Tuấn - Hiệu trưởng Trường THCS Trung Hiếu (Trung Thành, Vĩnh Long) chỉ ra 5 điểm đột phá của Nghị quyết số 71-NQ/TW:

Đặt giáo dục - đào tạo trong tầm chiến lược phát triển quốc gia: Nghị quyết xác định giáo dục, đào tạo là một trong những động lực then chốt để phát triển nhanh, bền vững đất nước trong giai đoạn mới. Đây là bước chuyển từ “ưu tiên” sang “đột phá chiến lược”.

Tập trung vào chất lượng và nhân lực trình độ cao: Nghị quyết nhấn mạnh đổi mới căn bản, toàn diện, lấy chất lượng, năng lực, phẩm chất người học làm trung tâm, đặc biệt chú trọng nhân lực chất lượng cao, nhân lực số, nhân lực nghiên cứu sáng tạo.

Đột phá về tự chủ giáo dục: Đẩy mạnh tự chủ đại học, tự chủ cơ sở giáo dục nghề nghiệp, tạo hành lang pháp lý và cơ chế để nhà trường chủ động, sáng tạo.

Ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số: Xem chuyển đổi số, AI, công nghệ mới là đòn bẩy để nâng cao năng lực hệ thống giáo dục.

Liên kết giáo dục với thị trường lao động và phát triển kinh tế - xã hội: Từ “đào tạo theo khả năng” sang “đào tạo theo nhu cầu xã hội”, gắn kết chặt chẽ giữa nhà trường - doanh nghiệp - Nhà nước.

“Đây là những đột phá vì nó giải quyết căn cơ 3 “điểm nghẽn” lâu nay của giáo dục Việt Nam: Chất lượng chưa đồng đều, cơ chế quản trị còn bao cấp, và khoảng cách lớn giữa đào tạo và nhu cầu xã hội”, ông Nguyễn Minh Tuấn khẳng định.

Khẳng định cơ hội lớn Nghị quyết số 71-NQ/TW đem lại cho giáo dục Việt Nam, ông Nguyễn Minh Tuấn cho biết: Trước hết, Nghị quyết nâng tầm vị thế giáo dục Việt Nam trở thành nền giáo dục mở, hiện đại, hội nhập, tạo điều kiện để Việt Nam tham gia sâu hơn vào thị trường lao động toàn cầu.

Cơ hội đầu tư mạnh mẽ hơn: Nhà nước sẽ ưu tiên nguồn lực, đồng thời huy động xã hội hóa để phát triển hạ tầng, cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên.

Thúc đẩy đổi mới chương trình, phương pháp: Đặt người học là trung tâm, khuyến khích sáng tạo, đổi mới, phát triển phẩm chất, năng lực.

Tạo động lực cho giáo viên và cán bộ quản lý: Chính sách mới về đào tạo, đãi ngộ, khuyến khích sáng kiến, từ đó nâng cao vị thế, động lực nghề nghiệp.

Thúc đẩy công bằng giáo dục: Quan tâm tới vùng sâu, vùng xa, đối tượng yếu thế, bảo đảm “không ai bị bỏ lại phía sau” trong tiếp cận tri thức.

tu-doi-moi-can-ban-toan-dien-sang-phat-trien-dot-pha-4.jpg

Ảnh minh họa: ITN

Đưa Nghị quyết vào cuộc sống

Để Nghị quyết đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả thực chất, theo ông Nguyễn Minh Tuấn, chúng ta cần có những giải pháp đồng bộ và quyết liệt, cụ thể:

Hoàn thiện thể chế và chính sách: Ban hành khung pháp lý đồng bộ cho tự chủ giáo dục, cơ chế tài chính, cơ chế hợp tác công - tư trong giáo dục, đào tạo.

Đầu tư trọng điểm: Ưu tiên đầu tư vào đào tạo nhân lực số, ngành mũi nhọn (AI, tự động hóa, năng lượng mới, y tế công nghệ cao…).

Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý: Bồi dưỡng năng lực số, năng lực nghiên cứu, kỹ năng sư phạm hiện đại; có chính sách đãi ngộ tương xứng để giữ chân nhân tài.

Đổi mới phương pháp dạy - học và đánh giá: Từ truyền thụ kiến thức sang phát triển năng lực; từ kiểm tra ghi nhớ sang đánh giá tư duy, năng lực giải quyết vấn đề.

Thúc đẩy liên kết nhà trường - doanh nghiệp - xã hội: Gắn kết đào tạo với nhu cầu lao động, khuyến khích mô hình “trường trong doanh nghiệp, doanh nghiệp trong trường”.

Đẩy mạnh chuyển đổi số giáo dục: Hệ thống dữ liệu học tập quốc gia, lớp học thông minh, học liệu số mở, nền tảng AI hỗ trợ dạy - học.

Giám sát, đánh giá thực chất: Tránh hình thức; mỗi cơ quan, địa phương, nhà trường phải có kế hoạch hành động cụ thể, gắn trách nhiệm người đứng đầu.

“Có thể nói, Nghị quyết số 71/NQ-TW là cơ hội vàng để giáo dục Việt Nam chuyển mình mạnh mẽ; nhưng thành công hay không phụ thuộc rất lớn vào sự kiên quyết trong hành động, đồng bộ trong giải pháp, tính minh bạch trong thực thi”, ông Nguyễn Minh Tuấn cho hay

Để Nghị quyết 71-NQ/TW của Bộ Chính trị sớm đi vào cuộc sống và được triển khai hiệu quả, ông Đặng Quốc An - Hiệu trưởng Trường THPT Trần Nhân Tông (Mạo Khê, Quảng Ninh) đề xuất, cần có những giải pháp đồng bộ, quyết liệt và thực tế từ Trung ương đến địa phương, từ cơ quan quản lý đến từng cơ sở giáo dục.

Thứ nhất, cụ thể hóa bằng chính sách pháp luật rõ ràng, đồng bộ: Rà soát, sửa đổi ban hành luật, nghị định, thông tư mới để thể chế hóa các nội dung của Nghị quyết, đặc biệt về cơ chế tài chính cho giáo dục ngoài công lập, tự chủ giáo dục và trách nhiệm giải trình, cơ chế đặc thù thu hút nhân tài, cải cách tiền lương giáo viên… Điều này tạo hành lang pháp lý minh bạch, vững chắc cho quá trình triển khai.

Thứ hai, tăng cường đầu tư ngân sách và huy động xã hội hóa: Phân bổ ngân sách công một cách hiệu quả, ưu tiên cho những khâu đột phá; ban hành cơ chế khuyến khích doanh nghiệp, cá nhân đầu tư vào giáo dục như ưu đãi tín dụng; Bảo lãnh đầu tư, hợp tác công - tư; Hỗ trợ các trường tư không vì lợi nhuận được tiếp cận vốn vay ưu đãi, đất sạch, dịch vụ công giá rẻ. Điều này sẽ giải quyết bài toán thiếu nguồn lực, thúc đẩy đầu tư cho giáo dục chất lượng.

Thứ ba, đẩy mạnh phân cấp, giao quyền tự chủ thực chất: Trao quyền nhiều hơn cho cơ sở giáo dục về tuyển sinh, tuyển dụng, xây dựng chương trình, hợp tác quốc tế, tài chính. Đồng thời thiết lập cơ chế giám sát kiểm tra minh bạch gắn với trách nhiệm giải trình. Điều này sẽ khơi dậy tính chủ động, sáng tạo tại mỗi cơ sở giáo dục, phát huy tối đa nguồn lực của mỗi địa phương.

Thứ tư, phát triển nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo: Có lộ trình cải cách tiền lương, chế độ đãi ngộ cho nhà giáo. Xây dựng hệ thống đào tạo bồi dưỡng thường xuyên linh hoạt qua hình thức trực tuyến, học tập suốt đời. Cải tiến công tác đánh giá, xếp loại giáo viên theo năng lực và kết quả thực tế.

Thứ năm, thúc đẩy chuyển đổi số, đổi mới công nghệ giáo dục: Hoàn thiện hạ tầng công nghệ cho các trường học, đẩy mạnh chuyển đổi số, xây dựng nền tảng học tập suốt đời quốc gia gắn với kho học liệu mở dùng chung toàn quốc. Điều này sẽ tăng hiệu quả dạy học, cá nhân hóa việc học, thu hẹp khoảng cách vùng miền.

Thứ sáu, truyền thông mạnh mẽ, tạo sự đồng thuận cao của toàn xã hội: Tăng cường truyền thông giải thích rõ nội dung, mục tiêu, lợi ích của Nghị quyết 71 đến từng người dân, giáo viên, học sinh, phụ huynh… Điều này sẽ tạo niềm tin, sự đồng thuận và sức ép xã hội để đẩy nhanh tiến độ thực hiện.

“Có thể nói, giải pháp quan trọng nhất là phải thay đổi tư duy và cách làm từ các cấp quản lý đến cơ sở, chuyển từ hành chính sang phục vụ, từ kiểm soát sang hỗ trợ, từ mệnh lệnh sang tạo điều kiện. Chỉ khi nào người đứng đầu các cấp quyết tâm thực hiện, giáo viên, học sinh và cả xã hội đều hiểu rõ vai trò, quyền lợi và cùng chung tay, thì Nghị quyết 71-NQ/TW mới thực sự tạo được sự đột phá về giáo dục và đào tạo như mục tiêu đề ra”, ông Đặng Quốc An nhấn mạnh.

tu-doi-moi-can-ban-toan-dien-sang-phat-trien-dot-pha-3.jpg

Ảnh minh họa: ITN

Khuyến khích học tập suốt đời

Nghị quyết 71-NQ/TW vừa được Bộ Chính trị ban hành đã tạo ra một luồng sinh khí mới cho ngành Giáo dục, đặc biệt với những định hướng đột phá về phát triển giáo dục mở, liên thông và đề cao vai trò, quyền lợi của nhà giáo.

Với góc nhìn từ giáo dục nghề nghiệp, ông Trần Anh Tuấn - Phó Chủ tịch Hội Giáo dục nghề nghiệp TP Hồ Chí Minh bày tỏ sự quan tâm đặc biệt đến những điểm mới mang tính nền tảng trong Nghị quyết số 71-NQ/TW.

Ông Trần Anh Tuấn nhấn mạnh, việc khẳng định “nền giáo dục mở, liên thông, học tập suốt đời” cùng với các chính sách đặc thù cho giáo dục nghề nghiệp sẽ mở ra cơ hội to lớn để phát triển nguồn nhân lực kỹ năng cao.

Ông Tuấn phân tích: “Định hướng này cho phép hợp thức hóa tín chỉ, công nhận kỹ năng, tạo điều kiện cho giáo dục nghề nghiệp trở thành vệ tinh ứng dụng, đào tạo kỹ sư thực hành cho các hệ sinh thái nghiên cứu và sản xuất kinh doanh”.

Để hiện thực hóa các mục tiêu này, ông Tuấn đề xuất một lộ trình gồm 10 giải pháp trọng tâm, tập trung vào chuyển đổi số và kết nối thị trường lao động. Trong đó, nổi bật là việc xây dựng chuẩn kỹ năng nghề phiên bản số cho các ngành xu hướng (AI, ô tô điện, an ninh mạng…); triển khai hồ sơ năng lực số cho người học để liên thông dữ liệu với tuyển dụng; và thí điểm cơ chế đặt hàng kỹ năng trực tiếp từ doanh nghiệp.

Đặc biệt, ông Tuấn nhấn mạnh sự cần thiết phải xây dựng một hệ sinh thái hướng nghiệp số và hệ thống dự báo thông tin thị trường lao động thống nhất, công khai. “Thông tin về lao động cần được tích hợp vào cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để việc kết nối cung – cầu thật sự hiệu quả,” ông Tuấn nói.

“Để Nghị quyết số 71-NQ/TW thực sự đi vào cuộc sống, cần thể chế hóa nhanh chóng các chính sách về đãi ngộ, tài chính, tự chủ, tránh khoảng cách giữa văn bản và thực tiễn; đồng thời, xây dựng cơ chế giám sát hiệu quả, bảo đảm tính công bằng và minh bạch trong thực thi. Cần tạo hệ sinh thái giáo dục lành mạnh, kết nối nhà trường - doanh nghiệp - xã hội, đồng thời đầu tư thực chất cho các trường sư phạm để thu hút nhân lực giỏi”. - TS Phạm Văn Giềng, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Bài tin liên quan
Đang chờ cập nhật