Hỗ trợ bò nái sinh sản, trao ‘cần câu’ sinh kế cho người nghèo ở Hà Tĩnh
Việc hỗ trợ bò nái sinh sản cho hộ nghèo ở Hà Tĩnh đã mở ra sinh kế bền vững, tạo nguồn thu ổn định và tiếp sức cho hành trình thoát nghèo.
![]() |
| Ngành chức năng trao tặng mô hình sinh kế chăn nuôi bò nái cho hộ nghèo ở xã Đức Thọ. (Ảnh: Thanh Tình) |
Điểm tựa mới cho những gia đình khó khăn
Thời gian qua, Hội Nông dân tỉnh Hà Tĩnh triển khai mô hình hỗ trợ bò nái sinh sản cho 60 hộ nghèo, cận nghèo và hộ mới thoát nghèo thuộc 15 xã. Toàn bộ nguồn lực được bố trí từ Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo năm 2025, hướng đến mục tiêu tạo sinh kế lâu dài và nâng cao khả năng tự chủ của người dân.
Mô hình bắt đầu từ giữa tháng 11 và đến ngày 25/11, hộ cuối cùng đã nhận bò. Ở nhiều gia đình, món quà hỗ trợ này như “phao cứu sinh” giữa những năm tháng chật vật.
Tại thôn Đồng Lạc (xã Đức Thọ), chị Trần Thị Thảo mang trên vai gánh nặng gia đình với chồng mắc bệnh tâm thần, bố mẹ già yếu, hai con đang học cấp 2. Cơn bão số 10 vừa qua khiến ngôi nhà bị thiệt hại hơn 50 triệu đồng. Thu nhập bấp bênh, sức khỏe yếu khiến chị gần như kiệt quệ.
Nhận thông tin được hỗ trợ bò nái, chị Thảo rưng rưng: “Đây là tài sản lớn nhất gia đình từng có. Cán bộ hội đến tận nhà hướng dẫn lót nền, xử lý ẩm ướt, chuẩn bị thức ăn, phòng bệnh… nên tôi yên tâm lắm. Trước giờ chỉ chăn nuôi nhỏ lẻ, giờ mới hiểu muốn có thu nhập ổn định phải làm bài bản”.
Ở thôn Thịnh Cường, chị Bạch Thị Hường, thuộc diện hộ nghèo, cũng xem món hỗ trợ là bước ngoặt quan trọng. Tai nạn lao động buộc chị rời nhà máy ở Bình Dương, trở về quê nương nhờ vào vài sào ruộng và làm thuê.
Một mình nuôi con học lớp 9, chị Hường cho biết, bản thân không thể tự tích góp để đầu tư giống bò trị giá lớn. “Con bò đến đúng lúc mình bế tắc nhất. Có "cần câu", mình sẽ cố gắng để gây đàn và cải thiện cuộc sống”, chị Hường nói.
Gắn hỗ trợ với giám sát, kỹ thuật
Một trong những yếu tố giúp mô hình đạt hiệu quả bước đầu là quy trình thẩm định chặt chẽ. Trước khi quyết định hỗ trợ, Hội Nông dân tỉnh phối hợp với UBND và hội nông dân cấp xã khảo sát điều kiện chuồng trại, khả năng chăm sóc và nhu cầu của từng hộ.

Việc được hỗ trợ bò nái sinh sản giúp các hộ nghèo ở Hà Tĩnh có thêm nguồn sinh kế. (Ảnh: Thanh Tình)
Mỗi hộ được hỗ trợ 16 triệu đồng, chuyển thẳng vào tài khoản cá nhân để tự mua giống, hạn chế việc sử dụng sai mục đích. Sau khi mua bò, cán bộ hội tiếp tục đồng hành, hướng dẫn kỹ thuật, như: Làm chuồng thoáng, chống ẩm, phối trộn thức ăn, theo dõi sức khỏe, phòng bệnh…
Nhiều hộ còn chủ động đối ứng thêm vốn để chọn bò trưởng thành, nhằm rút ngắn chu kỳ sinh sản và sớm có thu nhập từ lứa bê đầu tiên. Sự chủ động này cho thấy người dân không đứng chờ hỗ trợ mà sẵn sàng bỏ công, bỏ sức để phát triển sinh kế.
Theo đánh giá của cán bộ kỹ thuật, nếu được chăm sóc đúng quy trình, bò có thể sinh một lứa bê mỗi năm, mang lại nguồn thu đều đặn. Đây chính là yếu tố quan trọng tạo nên tính bền vững của mô hình.
Ông Phan Văn Hùng, Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ nông dân (Hội Nông dân Hà Tĩnh) cho biết: “Chúng tôi không chỉ trao con giống mà còn hướng dẫn kỹ thuật, giám sát để đảm bảo người dân hiểu cách nuôi. Khi họ nắm được kỹ năng, mô hình mới có thể duy trì và nhân rộng bền vững”.
Thực tế cho thấy, những mô hình hỗ trợ sinh kế nếu chỉ dừng lại ở việc trao con giống thường khó đạt hiệu quả lâu dài. Tuy nhiên, cách làm gắn hỗ trợ với trách nhiệm, giám sát và chuyển giao kỹ thuật như tại Hà Tĩnh đang mang lại kết quả tích cực.
Người dân được trao tài sản, được hướng dẫn đầy đủ và được đồng hành trong suốt quá trình nuôi dưỡng. Đây là yếu tố giúp họ tự tin hơn, giảm rủi ro và tránh tình trạng được hỗ trợ nhưng không thể nuôi.
Chương trình cũng là lời khẳng định rằng giảm nghèo bền vững không chỉ nằm ở hỗ trợ vật chất mà còn ở việc tăng cường năng lực, tạo động lực và trao cho người dân cơ hội tự đứng vững bằng chính nỗ lực của mình.
Nếu được theo dõi chặt chẽ và nhân rộng đúng cách, mô hình hỗ trợ bò nái sinh sản hoàn toàn có thể trở thành giải pháp dài hơi, giúp nhiều hộ nghèo ở Hà Tĩnh mở ra con đường thoát nghèo trong sự chủ động, bền vững và phù hợp với điều kiện thực tế địa phương.













