Lan tỏa giá trị di sản văn hóa các dân tộc Việt Nam
“Ngày hội Đại đoàn kết các dân tộc” mang đến trải nghiệm văn hóa đặc sắc của 54 dân tộc anh em, từ âm nhạc, múa hát đến trang phục truyền thống, góp phần giữ gìn bản sắc và quảng bá các di sản văn hóa của Việt Nam.

Đồng bào các dân tộc biểu diễn tại "Ngày hội văn hóa các dân tộc". Ảnh: Hải Nguyễn
Phát huy giá trị di sản chiêng Mường
Tiếng chiêng Mường từ lâu đã được xem là linh hồn của văn hóa Mường, là sự kết tinh của đời sống tinh thần, tâm linh và lịch sử cộng đồng. Trong quan niệm của người Mường, chiêng không chỉ để diễn tấu mà còn là tiếng nói của rừng núi, là sự giao hòa giữa con người với tổ tiên, trời đất.
Nghệ nhân Đinh Ngọc Lương, người sinh ra và trưởng thành trong tiếng chiêng Mường đầy giá trị văn hóa và tính biểu tượng, chia sẻ: “Từ lúc trẻ nhỏ cất tiếng khóc chào đời đến khi trở về với cõi "Mường trời", âm thanh boòng beng luôn đồng hành, nhắc nhở mỗi người về cội nguồn và bản sắc của dân tộc mình”.
Trong nghi lễ đầu năm, chiêng theo phường Xắc bùa gõ vang trước cửa từng nhà, mang đến lời chúc phúc và sự cát lành. Trong đám cưới, tiếng chiêng chúc tụng đôi uyên ương. Trong đám đưa tiễn, chiêng hóa thành âm thanh dẫn lối để linh hồn an yên trở về với tổ tiên. Khi bản làng tổ chức lễ Xuống đồng, lễ Cơm mới, tiếng chiêng lại trỗi dậy, rộn ràng gọi người, gọi mùa, xua đi điềm dữ và mang về mong ước no đủ.

Với nghệ nhân Đinh Ngọc Lương, sự hiện diện bền bỉ ấy khiến chiêng Mường được xem như báu vật, linh hồn của bản làng dân tộc. Mỗi bộ chiêng thường có 12 chiếc, tượng trưng cho 12 tháng, như vòng thời gian của một đời người gói lại trong tiếng ngân đồng.
Âm nhạc từ cồng chiêng Mường phản ánh sự khéo léo và thành thạo của người chơi trong cách vận dụng kỹ thuật đánh chiêng. Dù không phải là nhạc sĩ chuyên nghiệp, người Mường đã tạo nên nhiều bài chiêng độc đáo, đậm dấu ấn văn hóa riêng của cộng đồng mình.
Để giữ gìn và phát huy giá trị di sản văn hóa chiêng Mường, đồng thời giới thiệu rộng rãi cho công chúng quốc tế, tại "Ngày hội Đại đoàn kết các dân tộc" trong khuôn khổ Tuần “Đại đoàn kết các dân tộc - Di sản Văn hóa Việt Nam” (từ ngày 18 - 24.11), nghệ nhân Đinh Ngọc Lương cùng nhóm đồng bào dân tộc đã mang đến tiết mục chiêng Mường kết hợp điệu múa và hát đặc sắc.
Nghệ nhân chia sẻ: “Chúng tôi đã biên tập lại những điệu chiêng xưa trên nền chất liệu dân gian để phù hợp với sân khấu hiện nay nhưng vẫn giữ được tinh thần nguyên bản. Khi kết hợp tiếng chiêng với những câu hát và điệu múa dân tộc, tiết mục vừa đủ sức hấp dẫn khán giả, vừa truyền tải nét đẹp văn hóa đặc trưng của đồng bào người Mường”.
Ông bày tỏ hy vọng, thông qua các lễ hội văn hóa và các chương trình biểu diễn, giá trị chiêng Mường sẽ được gìn giữ và phát triển bền vững, vừa phục vụ đời sống tinh thần của cộng đồng, vừa trở thành cầu nối để quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới.

Lan tỏa sắc màu dân tộc anh em
Không chỉ nổi bật với tiếng chiêng rộn rã của người Mường, cộng đồng 54 dân tộc anh em ở Việt Nam còn sở hữu kho tàng văn hóa nghệ thuật phong phú, đa dạng, xứng đáng được bảo tồn và lan tỏa trong đời sống cộng đồng.
Đó là những điệu múa uyển chuyển của người Thái, lời hát Then và đàn Tính của người Tày, tiếng sáo, tiếng khèn của các dân tộc Tây Bắc, cùng những làn điệu dân ca dân gian như quan họ, ca trù, hát ru, hát sli, hát ghẹo... Tất cả những giá trị này không chỉ phản ánh đời sống tinh thần phong phú mà còn góp phần khẳng định bản sắc, lịch sử và trí tuệ của các cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Tại "Ngày hội Đại đoàn kết các dân tộc", điệu múa Au eo được người dân tộc Khơ Mú ở Sơn La biểu diễn, mang đến bầu không khí lễ hội vui tươi. Người múa lắc hông, uốn lượn eo, toàn thân rung theo nhịp chiêng, trống, như hòa mình vào thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, quên đi nhọc nhằn đời sống thường nhật.

Cùng với đó, âm thanh độc đáo từ nhạc cụ Đao Đao, làm từ ống nứa - vốn là công cụ lao động quen thuộc - vang lên, khiến người nghe vừa thích thú vừa thán phục sự khéo léo và sáng tạo văn hóa của đồng bào Khơ Mú. Cả điệu múa và âm nhạc đều đưa khán giả bước vào không gian lễ hội sống động, đầy nhịp điệu và sắc màu truyền thống.
Đối với người Nùng ở Thái Nguyên, du khách được chứng kiến những người phụ nữ xúng xính trong sắc đỏ của bộ trang phục hoa đào truyền thống, tay cầm đàn Tính, cất lên điệu dân ca “Pù pài tỉnh nhằng cằm có” hay ca khúc “Vui sao bản mình ơi!”, “Quê ta mở hội đón xuân”...
Chị Lô Thị Hương (dân tộc Nùng, Thái Nguyên) chia sẻ: “Giống như những dân tộc anh em đến đây, chúng tôi muốn mang đến cho sự kiện một phần hồn cốt văn hóa của dân tộc mình, để lan tỏa di sản và giá trị văn hóa truyền thống đến đông đảo công chúng. Mỗi điệu hát, mỗi nhịp đàn không chỉ thể hiện niềm vui, tinh thần đoàn kết, mà còn góp phần giữ gìn và truyền bá bản sắc riêng của dân tộc, giúp thế hệ trẻ và du khách hiểu rõ hơn về những giá trị văn hóa lâu đời của cộng đồng”.
Phạm Thị Bích Phượng (21 tuổi, sinh viên) đến thăm Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam đúng dịp diễn ra ngày hội. Cô bày tỏ sự thích thú khi được chào đón nhiệt tình bởi những đồng bào dân tộc anh em hòa đồng, thân thiện.
Bích Phượng cho biết: “Trước đây, mình chỉ được nhìn thấy hình ảnh đồng bào các dân tộc thiểu số qua sách báo hay truyền hình, chưa từng được giao lưu trực tiếp. Khi tham dự sự kiện, nghe họ múa hát, hòa nhịp với những nhạc cụ độc đáo, mình càng yêu mến và muốn khám phá sâu hơn văn hóa, truyền thống của các dân tộc anh em. Mình hy vọng có thể trở lại nhiều lần để trải nghiệm thêm và chia sẻ câu chuyện về những di sản, giá trị văn hóa đặc sắc này đến với mọi người”.
Sự kiện “Ngày hội Đại đoàn kết các dân tộc” vì thế trở thành cầu nối quan trọng, đưa âm nhạc, múa hát, trang phục truyền thống và phong tục tập quán của các dân tộc Việt Nam đến gần hơn với công chúng, góp phần lan tỏa và bảo tồn văn hóa truyền thống, tạo nên sức sống bền vững cho di sản văn hóa dân tộc.












