A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Đổi mới đào tạo sư phạm: Chuẩn hóa năng lực cho kỷ nguyên số

Không chỉ cần giỏi chuyên môn, ngày nay, giáo viên phải được trang bị kỹ năng số, phẩm chất nhân văn và tư duy sư phạm hiện đại.

Người thầy - ngọn lửa không bao giờ tắt

Sinh viên Trường Đại học Sư phạm TPHCM. Ảnh: NTCC
Sinh viên Trường Đại học Sư phạm TPHCM. Ảnh: NTCC

Từ yêu cầu này, việc trang bị năng lực cho sinh viên sư phạm đòi hỏi bước tiến vượt bậc, từ việc chỉ dạy năng lực số sang đào tạo chuyên sâu về phương pháp sư phạm AI (trí tuệ nhân tạo).

GS.TS Huỳnh Văn Sơn - Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm TPHCM: “Thích ứng - Sáng tạo - Nhân văn” - yêu cầu với người thầy trong thời đại số

chuan-hoa-nang-luc-cho-ky-nguyen-so-2.jpg

GS.TS Huỳnh Văn Sơn.

Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, đặc biệt làn sóng chuyển đổi số, người thầy không chỉ truyền thụ kiến thức, mà còn phải kiến tạo môi trường học tập số, dẫn dắt cảm hứng học tập, định hướng tương lai cho người học trong một thế giới biến động nhanh chóng.

Trở thành “người thầy số” là yêu cầu tất yếu trong thời đại giáo dục đổi mới. Một người thầy cần hội đủ ba yếu tố: Thành thạo công nghệ, chủ động thay đổi, giữ vững giá trị nhân văn. Đó không đơn thuần là kỹ năng sử dụng phần mềm, công nghệ số, mà là năng lực tư duy số, thiết kế trải nghiệm học tập đa nền tảng, thậm chí là khả năng “đọc vị” cảm xúc học sinh qua màn hình “lạnh” tưởng là khó phản ánh chân thật về người học ở lớp học trực tuyến.

Người thầy số cần biết lắng nghe trong thế giới của dữ liệu, thắp lửa cảm xúc bằng công cụ kỹ thuật, biết “gieo” nhân cách qua từng tương tác ảo. Thầy cô không còn đứng bục, mà “chạm” vào tâm trí học sinh bằng công nghệ, khai thác công nghệ, sử dụng công nghệ, làm chủ công nghệ và khuyến khích học sinh sử dụng công nghệ có kỹ năng, có trách nhiệm, bảo đảm đạo đức dùng…

Ngày nay, một người thầy có thể không đứng lớp mà vẫn “hiện diện” trong mọi thiết bị học tập, từ điện thoại đến máy tính bảng. Sự hiện diện số không đơn thuần là kỹ thuật, mà còn là nghệ thuật quản lý không gian học tập trực tuyến, điều tiết tiết học số, tương tác sâu sắc thông qua nền tảng công nghệ. Hiện diện số (Digital Presence) là yêu cầu cấp thiết, hiện hữu.

Không những giáo viên phải có năng lực sử dụng thành thạo các công cụ hỗ trợ dạy học, mà quan trọng hơn phải biết biến lớp học số thành không gian sáng tạo, nhân bản, tương tác thực sự. Công nghệ chỉ là công cụ. Người thầy mới là linh hồn của lớp học, dù ở không gian thật hay không gian ảo.

Một đặc điểm then chốt của người thầy số là tinh thần học tập liên tục. Giáo viên cần chủ động cập nhật tri thức, khám phá công nghệ mới, tích hợp kỹ thuật số vào tiến trình giáo dục. Đây là thời đại mà “người học học nhanh hơn người dạy”. Do đó, giáo viên buộc phải đi trước, hoặc ít nhất đi cùng người học trong hành trình tiếp cận tri thức mới.

Một trong những lo ngại lớn nhất khi giáo dục chuyển dịch sang không gian số là nguy cơ mất đi tính nhân văn, cảm xúc trong lớp học. Do đó, người thầy số không chỉ làm chủ công nghệ, mà còn phải làm chủ cảm xúc, duy trì kết nối, chăm sóc tâm lý người học. Người thầy cần là điểm tựa cảm xúc giữa dòng thông tin hỗn loạn, là người biết chạm đến trái tim bằng ngôn từ giản dị, là người nuôi dưỡng sự tin yêu qua từng phản hồi, câu hỏi.

Học sinh hiện đại có nhu cầu học tập khác nhau; có em giỏi ngôn ngữ, em thiên về hình ảnh hay vận động. Trong môi trường số, người thầy cần có năng lực sử dụng công nghệ để thiết kế lộ trình học phù hợp, tích hợp đa dạng nội dung, đa phương thức thể hiện và kiểm tra đánh giá. Đây không chỉ là một kỹ năng kỹ thuật, mà là năng lực sư phạm hiện đại, kết hợp giữa hiểu biết tâm lý học sinh, sử dụng dữ liệu học tập, kỹ năng quản trị lớp học phân hóa.

TS Tôn Quang Cường - Chủ nhiệm Khoa Công nghệ giáo dục, Trường Đại học Giáo dục (Đại học Quốc gia Hà Nội): Trang bị cho nhà giáo tương lai cách học, tư duy dạy học cùng AI

chuan-hoa-nang-luc-cho-ky-nguyen-so-3.jpg

TS Tôn Quang Cường.

Trí tuệ nhân tạo (AI) xuất hiện như một yếu tố tác động, yêu cầu chuyển đổi cấp bách đối với ngành sư phạm. AI không chỉ dừng lại ở công cụ, giải pháp, hay nền tảng tích hợp, mà còn cần nghiên cứu, đưa ra định vị mới cho “sư phạm số, sư phạm AI”.

Về bản chất, đó chính là sự cân bằng để triển khai các hoạt động giáo dục, sư phạm trong bối cảnh hiện nay dựa trên “tính đối tác” của công nghệ AI và “tính tự chủ” của người sử dụng.

Với sự xuất hiện của các mô hình giáo dục phi truyền thống dựa trên nền tảng công nghệ số, đặc biệt AI, các mối quan hệ giữa người dạy - người học, người học - nội dung học tập, phương pháp - nhu cầu học tập đang thay đổi sâu sắc, hướng đến sự cá nhân hóa và trải nghiệm học tập linh hoạt. Cách xây dựng và triển khai chương trình giáo dục ngày càng hướng về “thiết kế dạy học” và “trải nghiệm học tập” để thích ứng với các nhu cầu liên tục được xuất hiện…

Về tổng thể, nhận diện năng lực mới cần có ở sinh viên sư phạm chính là kỹ năng sư phạm số (để sử dụng AI có trách nhiệm, đạo đức và hiệu quả) và khả năng thiết kế trải nghiệm học tập với AI (để thúc đẩy tính tự chủ, tự quyết và kỹ năng giải quyết vấn đề phức tạp cho người học). Do vậy, sinh viên sư phạm cần được đào tạo để có tư duy mới về dạy học, phương pháp dạy học, phát triển chuyên môn nghiệp vụ dựa trên học tập suốt đời và khả năng chủ động thích ứng.

Đứng trước yêu cầu đó, trường sư phạm cần hành động mang tính chiến lược và kế hoạch thực hiện cụ thể, thực sư coi AI là một “tác nhân” mới, có vai trò tích cực trong quá trình đào tạo sư phạm cho giáo sinh. AI không chỉ là công cụ, giải pháp, trợ lý, mà còn là “tác nhân”, “đối tác” tham gia tích cực vào quá trình kiến thiết, đồng sáng tạo giải quyết các vấn đề mới của hoạt động sư phạm.

Một tư duy mới về tiếp cận sư phạm ngày càng hướng đến khả năng tự quyết định, định hướng, điều chỉnh quá trình học tập của người học dựa trên công nghệ vượt lên trên các giới hạn vật lý cũng là điều nên tiếp tục nghiên cứu, tích hợp toàn diện vào nội dung chương trình và cách thức đào tạo. Chuyển động sư phạm trong các cơ sở đào tạo giáo viên hiện nay cần hướng đến việc trang bị cho nhà giáo tương lai cách học với AI, cách tư duy dạy học cùng AI, chứ không phải để AI làm thay.

Ông Ngô Huy Tâm - chuyên gia giáo dục, ThS Thiết kế chương trình giảng dạy Đại học Houston (Mỹ): Xây dựng khung năng lực toàn diện cho sinh viên sư phạm

chuan-hoa-nang-luc-cho-ky-nguyen-so-4.jpg

Ông Ngô Huy Tâm.

Một giáo viên của tương lai cần được định hình bởi một khung năng lực đa chiều, bao gồm: Năng lực chuyên môn sâu và liên ngành; năng lực số và năng lực AI (khai thác dữ liệu và thông tin; giao tiếp và hợp tác trong môi trường số; sáng tạo nội dung số; an toàn và an sinh số; giải quyết vấn đề trong môi trường số); ứng dụng AI; các kỹ năng mềm thiết yếu của thế kỷ 21, gồm: Tư duy phản biện và sáng tạo, giao tiếp và hợp tác, trí tuệ cảm xúc - EQ; khả năng thích ứng và học tập suốt đời; phẩm chất đạo đức, lòng yêu nghề.

Việc trang bị năng lực cho sinh viên sư phạm đòi hỏi bước tiến vượt bậc từ việc chỉ dạy năng lực số sang việc đào tạo chuyên sâu về phương pháp sư phạm AI. Khung năng lực số của Bộ GD&ĐT (Thông tư số 02/2025/TT-BGDĐT) đặt ra một nền tảng chung, cần thiết cho mọi người học.

Tuy nhiên, đối với sinh viên sư phạm, đây mới chỉ là điều kiện cần. Điều kiện đủ và mang tính quyết định chính là năng lực sư phạm chuyên biệt trong môi trường có AI. Năng lực này không chỉ là biết cách sử dụng ChatGPT hay các công cụ khác, mà là biết cách dạy học với các công cụ đó.

Nó bao gồm khả năng thiết kế những câu lệnh (prompt) có thể kích thích tư duy phản biện thay vì chỉ tìm kiếm câu trả lời; khả năng hướng dẫn học sinh đánh giá và cải thiện nội dung do AI tạo ra; và khả năng xây dựng các hình thức kiểm tra, đánh giá vừa “chống gian lận bằng AI”, vừa tận dụng AI một cách sáng tạo để đo lường các năng lực tư duy bậc cao.

Lớp năng lực sư phạm chuyên biệt này chính là điểm khác biệt giữa một người dùng công nghệ thành thạo và một nhà giáo dục hiệu quả trong kỷ nguyên số. Do đó, các chương trình đào tạo cần phải vượt lên trên khung năng lực số chung để phát triển các học phần và hoạt động thực hành chuyên sâu về phương pháp sư phạm AI (AI Pedagogy).

Có thể nói, trong bối cảnh AI đang định hình lại tương lai giáo dục toàn cầu, Việt Nam cần một tầm nhìn chiến lược và hành động quyết liệt để biến thách thức thành cơ hội, nâng tầm vị thế của nhà giáo và chất lượng của cả nền giáo dục. Để hiện thực hóa tầm nhìn này, cần chính sách đồng bộ, quyết liệt ở cấp vĩ mô. Dưới đây là năm khuyến nghị chiến lược dành cho Bộ GD&ĐT và các cơ quan liên quan:

Thứ nhất, cần khẩn trương nghiên cứu và ban hành một Khung năng lực AI chính thức dành riêng cho nhà giáo, bao gồm cả sinh viên sư phạm và giáo viên. Đây sẽ là văn bản pháp lý nền tảng, định hướng cho việc đổi mới toàn diện chương trình đào tạo trong trường sư phạm và các chương trình bồi dưỡng giáo viên trên cả nước.

Thứ hai, cần xây dựng một đề án quốc gia, tương tự như các đề án về phát triển công nghệ cao hay công nghiệp bán dẫn, để đầu tư mạnh mẽ, có trọng điểm vào cơ sở hạ tầng số, phòng thí nghiệm AI, các chương trình thu hút, đào tạo chuyên gia AI cho các trường đại học sư phạm hàng đầu. Đây là nhiệm vụ cấp thiết để đảm bảo nguồn nhân lực chất lượng cao, đủ sức dẫn dắt quá trình chuyển đổi số của toàn ngành, hiện thực hóa các mục tiêu tham vọng của Quyết định 131/QĐ-TTg.

Thứ ba, thay vì chỉ tổ chức các lớp tập huấn tập trung, cần học hỏi mô hình thành công của Phần Lan để xây dựng các chương trình bồi dưỡng tại chức theo mô hình mạng lưới. Theo đó, một đội ngũ giáo viên cốt cán tại các địa phương sẽ được đào tạo chuyên sâu, sau đó trở thành những người cố vấn, hỗ trợ và lan tỏa kinh nghiệm cho đồng nghiệp ngay tại trường học của mình. Mô hình này giúp tạo ra sự thay đổi bền vững, lan tỏa nhanh chóng hơn.

Thứ tư, Nhà nước cần đóng vai trò chủ đạo trong đầu tư xây dựng kho học liệu số quốc gia và khuyến khích, tài trợ cho việc phát triển các công cụ AI giáo dục mã nguồn mở. Các công cụ này cần được kiểm định chặt chẽ về chất lượng, tính sư phạm và đạo đức trước khi phổ biến rộng rãi. Điều này sẽ đảm bảo sự công bằng trong tiếp cận công nghệ cho mọi trường học, đồng thời tránh sự phụ thuộc vào các giải pháp thương mại độc quyền, đắt đỏ và tiềm ẩn rủi ro về an toàn dữ liệu.

Thứ năm, sự phổ biến của AI tạo sinh đòi hỏi thay đổi căn bản trong quan niệm về kiểm tra, đánh giá. Bộ GD&ĐT cần nghiên cứu và ban hành các quy định, hướng dẫn mới về việc sử dụng (hoặc không sử dụng) AI trong học tập, làm bài tập và các kỳ thi. Trọng tâm của hoạt động đánh giá cần dịch chuyển từ việc kiểm tra khả năng ghi nhớ kiến thức sang đánh giá các năng lực bậc cao như giải quyết vấn đề, tư duy phản biện, sáng tạo và khả năng hợp tác - những năng lực mà AI không thể thay thế.

Giáo dục số không phải là thay thế người thầy bằng máy móc, mà là trao cho người thầy quyền năng mới - quyền năng cá nhân hóa hành trình phát triển của từng học sinh.

Người thầy thời đại số cần vừa biết làm chủ công nghệ, vừa biết giữ gìn phẩm chất nhân văn, kết nối thế hệ mới bằng niềm tin, sự hiểu biết và trái tim của một nhà giáo đích thực. Muốn làm được điều đó, mỗi người thầy cần bước ra khỏi vùng an toàn, trở thành người học chủ động, nhà thiết kế linh hoạt, người dẫn dắt cảm hứng đích thực. - GS.TS Huỳnh Văn Sơn


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Bài tin liên quan